NHỮNG CHUYỆN KHÔNG TƯỞNG TƯỢNG NỔI Ở ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN
(Nhân việc đạo diễn Phan Minh Sơn gửi cho bộ phim này - có đoạn đóng cùng diễn viên Mỹ Hiền, úp bài viết về nhà tù Côn Đảo)
Những cuộc quật mồ tập thể đầy thương đau
Trong những ngày đất nước tưng bừng chuẩn bị cho ngày Quốc khánh, tôi hòa vào dòng người xuống tàu cao tốc rời TP. Rạch Giá ra hòn đảo xinh đẹp Phú Quốc.
Những ngày này, các phương tiện đưa người ra Phú Quốc đều quá tải, không đáp ứng nổi. Phần lớn người ra đảo để nghỉ ngơi, thưởng lãm cảnh đẹp đảo ngọc, nhưng cũng có không ít cựu chiến binh muốn tìm lại ký ức kinh hoàng chưa bao giờ nguôi ngoai.
Nhà tù Phú Quốc gần như chẳng còn gì. Mọi thứ hầu như đều là phục dựng lại. Thế nhưng, những hình nộm mô tả cảnh tra tấn các chí sĩ yêu nước, cũng đủ làm bất cứ ai phải rùng mình sợ hãi.
Những chiếc răng, những mảnh xương bánh chè, những chiếc đinh xuyên mẩu xương lượm được từ những nấm mồ tập thể, đã tố cáo một tội ác ghê rợn mà thế hệ trẻ chưa được biết đến, hoặc không thể tưởng tượng nổi.
Để thực hiện loạt phóng sự, dựng lại phần nào những cảnh tàn ác gầm trời có một ở nhà lao Phú Quốc, chúng tôi đã phải nhiều lần ra vào Phú Quốc, đi theo đội tìm kiếm, khai quật, cất bốc hài cốt liệt sĩ, trong số 4.000 tù chính trị bị sát hại. Những cuộc khai quật đầy đau thương và nước mắt ấy, đã dựng lại những trang sử bi tráng về những chiến sĩ cộng sản.
Tôi đã có nhiều chuyến theo cô Vũ Thị Minh Nghĩa đi tìm mộ liệt sĩ và cho đến lúc này, tôi vẫn không lý giải nổi những bí ẩn trong tâm hồn cô. Cô từng có chồng con, có gia đình hạnh phúc, nhưng rồi một ngày, cô cưới vợ cho chồng, bỏ lại quê hương bản quán, một thân một mình vào Nam, rồi cứ lăn lộn hết rừng này đến núi nọ để tìm mộ, quy tập hài cốt liệt sĩ thất lạc.
Ngồi trong căn nhà đơn sơ, nơi âm khí và hài cốt vây quanh ở thị xã Bà Rịa (tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu), nhắc lại những cuộc đào bới hài cốt ở Phú Quốc, cô Nghĩa rưng rưng xúc động. Trong suốt cuộc đời cất bốc hài cốt, từ rừng núi, biển khơi, đến tận nước bạn Lào, Campuchia, nhưng chưa có cuộc khai quật nào khiến cô khóc nhiều đến vậy.
Thân phận các tù nhân chính trị Phú Quốc quá tàn khốc, quá thương tâm. Không đâu trên thế giới này mà con người đối xử với con người lại khủng khiếp như vậy. Từ những bộ hài cốt bị đóng đinh, xương bị đập bể vụn, sọ lìa khỏi xương sống, những hình ảnh tra tấn khủng khiếp các chiến sĩ cộng sản hiện hữu như thước phim rõ nét trước mắt cô.
Chúng tôi từng có mặt tại Phú Quốc vào đúng đợt cao điểm khai quật, cất bốc hài cốt liệt sĩ tại những hố chôn tập thể. Trung tá Nguyễn Văn Cao, Đội phó Đội K92, tỉnh Kiên Giang, phải thốt lên rằng: “Chưa bao giờ đội K92 phải huy động nhiều nhân lực, máy móc cho cuộc khai quật như thế này. Xương cốt các anh tầng tầng lớp lớp, vùi sâu đến ngót chục mét trong lòng núi non hiểm trở, sỏi đá lèn chặt đến nỗi cuốc bổ quằn lưỡi”.
Ban tìm kiếm, cất bốc hài cốt liệt sĩ được lập gồm 40 đồng chí, do đích thân Phó Chủ tịch tỉnh Kiên Giang làm trưởng ban. Để chuẩn bị cho công cuộc đào bới này, họ phải khảo sát địa hình, phát quang, rà phá bom mìn, lên phương án tỉ mỉ suốt cả tháng trời.
Hố khai quật rộng cả trăm mét vuông được máy xúc, máy ủi bới ra. Cô Minh Nghĩa cùng các chiến sĩ trẻ nhảy xuống hố khai quật sâu tới 5m. Họ dùng chiếc bay nhỏ gạt từng lớp đất đen.
Linh cảm của người có mấy mươi năm cất bốc hài cốt nên nhìn màu đất là cô biết được có hài cốt hay không. Mọi công việc đều phải nhẹ nhàng, thận trọng. Cô và các chiến sĩ nhặt lên, xếp đủ 5 bộ xương người.
Hố khai quật tiếp tục được đào sâu, mở rộng. Càng đào bới, càng đau thương, càng xót xa, càng căm phẫn. Hầm mộ thứ nhất tìm được tới 513 hài cốt, hầm mộ thứ hai phát hiện 508 hài cốt, hầm mộ thứ ba có 118 hài cốt, hầm mộ thứ tư là 80 hài cốt.
Tổng cộng, trong mấy tháng nếm mật nằm gai, bới từng nắm đất, cô Nghĩa và các chiến sĩ đội quy tập đào lên từ lòng đất sâu thẳm hơn 1.000 hài cốt vô danh. Đây là một kỳ tích chẳng biết nên vui hay buồn. Đến trời Phú Quốc cũng phải nổi cơn giông trút mưa sầu gió thảm.
Cô Minh Nghĩa giơ bàn tay gầy guộc cho tôi xem. Cuộc cất bốc hài cốt diễn ra đã mấy năm, nhưng di chứng chất độc hóa học ăn ruỗng tay cô, để lại sẹo nhẳng nhịt vẫn còn hiện rõ.
Mấy chục năm đi cất bốc liệt sĩ, chưa bao giờ cô thấy khủng khiếp và xót xa đến vậy. Khi máy xúc múc đất lên, lộ ra trắng xóa xương cốt, nhiều người chóng mặt, nôn nao, thậm chí ngất xỉu vì không chịu nổi mùi xác người yếm khí do chôn quá sâu, và mùi chất độc hóa học bay lên sau bao năm ủ kín dưới lòng đất.
Mọi người đưa găng tay cho cô, nhưng cô không dùng vì sờ xương cốt không thật. Thà đôi bàn tay sưng mọng vì nhiễm độc, chứ cô không chịu nổi chuyện bỏ sót xương cốt đồng đội.
Bọn địch thật quá tàn nhẫn. Đẩy các chiến sĩ cách mạng xuống hố sâu, chúng còn xả hàng tấn hóa chất để tiêu hủy da thịt, xương cốt các chiến sĩ cách mạng, để che giấu tội ác ngàn đời. Vậy nên, gạt lớp đất, nhìn thấy rành rành mẩu xương, nhưng khi nhặt lên, thì lập tức vỡ vụn. Xương cốt đã bị chất hóa học phân hủy.
Cô Nghĩa đã khóc, cả trăm người tham gia cuộc khai quật cũng đã không cầm được nước mắt. Đầu lâu của các anh, các chú nằm một chỗ, thân thể nằm một nơi. Nhìn hài cốt, cô Nghĩa hiểu cả.
Sau này, trò chuyện với các cựu tù, tôi mới biết, khi giết các chú, chúng còn dùng xẻng, dùng dao chặt đứt đầu, rồi mới quăng xuống hố. Chúng làm thế, để những tù chính trị chứng kiến mà hãi hùng, nhụt chí khí đấu tranh.
Đào hết lớp xương thứ ba trong hố khai quật, thì gặp tảng đá khổng lồ. Mọi người nghĩ rằng, hố khai quật đã đến đáy, nhưng nhìn lớp đất, nhìn tảng đá, với sự nhạy cảm của mình, cô Minh Nghĩa tin rằng vẫn còn hài cốt.
Phải máy cẩu mới nhấc được tảng đá khổng lồ, nặng vài tấn lên khỏi hố. Giời ạ! Dưới tảng đá đó là vô số xương cốt vỡ vụn. Cả trăm thi thể được đùn xuống hố, chúng xả hóa chất xuống, lại còn vần tảng đá khổng lồ xuống hố nghiền nát thi thể các tù nhân.
Trong số hơn ngàn hài cốt được tìm thấy trong cuộc khai quật lịch sử trong tổng số 4.000 cựu tù đã bỏ mạng ở địa ngục trần gian, chỉ có duy nhất đồng chí Nguyễn Văn Khai, quê Thanh Hóa là có tên.
Sau này mọi người mới biết, khi chúng bắt tù nhân phải vác xác đồng đội mình đi chôn, một đồng chí đã nhanh tay viết tên đồng đội của mình, bọc vào nilon rồi nhét vào xác.
Trong buổi quy tập đau thương khủng khiếp ấy, chúng tôi đã được chứng kiến một cảnh tượng thắt lòng khi bến tàu An Thới ngập tràn tiểu sành được chuyển từ đất liền ra. Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Kiên Giang đã phải huy động cả mấy tỉnh thành mới có đủ số lượng tiểu sành chở ra đảo phục vụ cho cuộc khai quật hài cốt.
Cuộc khai quật hài cốt đau thương ngoài sức tưởng tượng ở Phú Quốc đã tái hiện cảnh tượng địa ngục trần gian một thời ở hòn đảo mà bây giờ người ta gọi là thiên đường du lịch.
Kinh hoàng chuyện đóng đinh vào người cho đến chết
Lần chứng kiến cuộc khai quật hố chôn tập thể lớn nhất từ trước đến nay ở Phú Quốc, cô Vũ Thị Minh Nghĩa đôi mắt mọng đỏ sụt sùi đưa cho chúng tôi xem những mẩu xương vẫn còn những chiếc đinh to bằng ngón tay, bằng cái đũa xuyên qua.
Cô bảo: “Đau xót lắm cháu ạ. Có những bộ xương cô đếm được tới 16 cái đinh mười (dài 10cm, hay còn gọi là đinh 1 tấc) xuyên qua. Hộp sọ mà có mấy chiếc đinh to bằng ngón tay xuyên vào thì làm sao sống được. Trên đời này có giống loài nào tàn độc như bọn Ngụy không cháu?”.
Chỉ trong một hầm mộ, mà cô Minh Nghĩa lượm được tổng số 300 chiếc đinh vẫn dính vào những mẩu xương. Đinh cắm chặt vào xương sống, xương ống chân, mắt cá chân, ống tay, xương bánh chè, xương sọ, xương bả vai… Xương dính đinh là những bằng chứng rõ rệt nhất tố cáo tội ác tày trời của kẻ thù, được đựng đầy trong mấy thúng to nộp cho Phòng văn hóa huyện đảo Phú Quốc.
Trong ngôi nhà tuềnh toàng ở Vụ Bản (Nam Định), cựu tù Phú Quốc Vũ Minh Tằng mang thương tật khắp người, nhớ lại những tháng ngày ở “địa ngục trần gian” với thái độ rất bình thản. Ông chậm rãi kể lại những ngón đòn tra tấn của bọn ác ôn.
Theo đó, bọn chúng có đủ các loại nhục hình, tra tấn dã man, quái gở mà bình thường khó ai có thể tưởng tượng nổi.
“Tôi đã nghiên cứu hầu hết các nhà tù ở Việt Nam, tìm hiểu các hình thức nhục hình tàn bạo trên thế giới, song không thấy đâu có những trò tra tấn, giết người dã man như ở nhà lao Phú Quốc” – ông Tằng kể.
Thời Pháp, sau khi dùng nhục hình, tra khảo, chúng tống các tù nhân vào trai giam, nhốt kín. Thế nhưng, thời Ngụy, có lẽ rút được bài học đối phó với tù nhân cộng sản vô cùng kiên trung nên chúng thực hiện các thủ đoạn thâm độc nhất nhằm làm lung lay ý chí của chiến sĩ cộng sản. Không làm nhụt được ý chí người cộng sản, thì chúng tra tấn cho đến chết, hoặc giết chết theo một cách dã man, quái đản nhất.
Hành động tra tấn bằng đóng đinh vào người thì hầu như những chiến sĩ cộng sản kiên gan đều phải trải qua.
Theo ông Tằng, khi nhập nhà lao, việc đầu tiên là chúng dùng đòn phủ đầu để đè bẹp ý chí của người chiến sĩ cộng sản.
Vừa đặt chân xuống An Thới (Phú Quốc), các chiến sĩ cộng sản đã bị một toán lính làm nhiệm vụ tiếp nhận xông tới đánh bằng báng súng, dùi cui, đấm, đá bằng giày đinh đến khi hộc máu mồm, choáng váng, ngất xỉu.
Tiếp đó là lên xe để nhập trại, rồi vào các phân khu trại giam. Cứ mỗi lần lên xe, xuống xe, các chiến sĩ cách mạng lại bị một trận đòn khủng khiếp.
Ông Ba Toản, cựu tù Phú Quốc, hiện đang sống ở huyện đảo này kể: “Nhiều đồng chí nóng tính, không kiềm chế được bản thân sẽ thiệt mạng ngay khi nhập trại. Đợt chúng đưa tôi ra Phú Quốc còn có mấy đồng chí nữa. Khi chúng vừa đánh đòn phủ đầu vừa chửi bới cộng sản, ba đồng chí ức quá liền phản ứng.
Mặc dù sự phản ứng không lớn lắm, chỉ là yêu cầu chúng đối xử như tù binh chiến tranh, chứ không phải con vật, thế mà chúng gọi lại, rồi liên tiếp những tiếng đoàng khô khốc vang lên. Ba đồng chí gục tại chỗ, máu chảy thấm đỏ bãi cát. Chứng kiến cảnh đó, ai không vững chí là lung lay ngay”.
Sau đòn phủ đầu, sẽ là quá trình tra khảo. Tại bộ chỉ huy trại giam của địch có 3 ban tra khảo mà các tù nhân cộng sản gọi là ban ác ôn.
Lần lượt từng tù binh được đưa vào phòng để thẩm vấn. Những chiếc đinh 3cm được chuẩn bị sẵn, cùng với búa, đặt trên mặt bàn. Hai tên làm nhiệm vụ giữ tay tù binh cộng sản cố định trên mặt bàn. Tên tra khảo một tay giữ đinh đứng thẳng trên đầu ngón tay tù binh, một tay cầm búa.
Cứ sau mỗi câu hỏi, hắn lại giáng búa, đinh phập xuyên ngón tay, vỡ nát xương, cắm chặt xuống mặt bàn, không rút tay lên được. Các tù binh cộng sản đều kiên trung bất khuất, chẳng bao giờ hé răng khai báo, nên sau khi được chúng quẳng về phòng giam, thì 10 đầu ngón tay đều tơi tả, rỉ máu đỏ lòm.
Đầu ngón tay là nơi tập trung đầu dây thần kinh, nên mỗi lần đóng đinh, đau đớn buốt tận óc, ngất xỉu. Tuy nhiên, biết rằng kiểu gì cũng bị đóng đinh, nên các tù binh cộng sản đều bình thản chấp nhận trải qua màn tra tấn này.
Mặc dù màn tra tấn đó vô cùng dã man, nhưng cũng không làm ý chí người cộng sản lung lay, nên sau này, bọn chúng đã nâng thêm nhiều bước nữa. Chúng dùng những chiếc đinh 6cm, 8cm rồi tiếp đó là đinh 10cm.
Sau khi đóng nát 10 ngón tay, bàn tay các chiến sĩ cộng sản, thì chúng tiếp tục đóng đinh vào chỗ khác trên cơ thể.
Liệt sĩ Lâm Rô, sau khi bị tra tấn bằng việc đóng đinh vào các ngón tay, không tra khảo được gì, chúng tiếp tục đóng đinh vào khắp nơi trên cơ thể đồng chí. Những chiếc đinh được đóng vào chân, vào lưng, xương bánh chè… cũng chẳng khiến đồng chí mở miệng.
Cuối cùng, những chiếc đinh ghim vào đầu đã cướp đi mạng sống của người chiến sĩ cách mạng kiên trung. Sau này, khi quật mộ ở nghĩa địa tù binh trên đồi 100, đưa về an táng tại nghĩa trang liệt sĩ Dương Đông, những người bốc mộ đã không kìm được nước mắt khi đếm được 7 chiếc đinh dài 8cm còn dính trên xương cốt của liệt sĩ.
Trong số cả trăm tù nhân cộng sản ở Phú Quốc hi sinh vì bị đóng đinh vào người, thì liệt sĩ Nguyễn Thanh Long bị chúng tra tấn bằng đinh khủng khiếp nhất.
Trong ký ức của những cựu tù còn sống, thì ngày 9-4-1970 là ngày đáng nhớ, bởi sự hi sinh anh dũng bất khuất của tù nhân cộng sản Nguyễn Thanh Long.
Vừa nhập trại, chưa kịp hồi phục sau những trận đòn phủ đầu, đồng chí đã bị lôi lên phòng ác ôn để tra khảo. Tại căn phòng đẫm máu này, đồng chí đã ra đi mãi mãi. Không thấy bạn tù về phòng, ai cũng hiểu đồng chí đã hi sinh anh dũng.
Chỉ đến khi mộ đồng chí ở đồi 100 được cải táng, các cựu tù mới biết rõ đồng chí hi sinh thảm khốc như thế nào. Đóng đinh nát hai bàn tay không làm lung lay ý chí người tù cộng sản, bọn địch đã dùng đinh đóng tiếp vào cổ chân phải và cổ chân trái.
Hành động đóng đinh của chúng điệu nghệ, tỉ mẩn chẳng khác gì thợ mộc. Đinh to như vậy, nhưng chúng đóng xuyên qua mắt cá, xuyên qua khớp. Những chiếc đinh 1 tấc, to bằng ngón tay được đóng xuyên qua bả vai.
Đóng đinh mãi mà tinh thần đồng chí Nguyễn Thanh Long không hề suy suyển, nên chúng dùng cả đinh 8cm lẫn 1 tấc đóng chi chít vào hộp sọ, xuyên thủng màng tai, hốc mắt để tước đi mạng sống của người cộng sản kiên trung.
Trong quá trình khai quật mộ, còn làm phát lộ vô vàn những liệt sĩ bị đóng đinh đến chết. Những chiếc đinh được đóng ở bất cứ bộ phận nào trên cơ thể cựu tù cộng sản.
Một liệt sĩ vô danh khi quật mồ thì thấy rằng: Sau khi bị trói còng tay bằng dây chì gai cùng với còng sắt, bị vô số đinh đóng vào chân, tay, đầu gối, đùi, bả vai… vẫn chưa chết, chúng đã dùng sợi dây dù cực bền siết cổ để loại bỏ một tù binh cộng sản cứng đầu. Giết tù binh rồi, chúng đào hố quẳng xác xuống và lấp lại. Còng sắt, dù siết cổ và những chiếc đinh đóng vào bộ hài cốt vẫn còn nguyên vẹn dưới lòng đất.
Ghê rợn kỹ nghệ đục xương bánh chè, nướng sắt xuyên bắp chân
Hôm có mặt ở hố chôn tập thể tù nhân Phú Quốc, nhiều người rơi nước mắt khi cô Vũ Thị Minh Nghĩa lầm lụi, tỉ mẩn nhặt nhạnh từng mẩu hài cốt gói vào lá cờ Tổ quốc, rồi đánh số chi chít. Khi vào chiến trường, các chú, các bác đều có tên, có tuổi, nhưng giờ chỉ còn mảnh xương tàn, hay vệt đất mờ mờ hoa thổ.
Cô Minh Nghĩa bảo rằng, bốc cất hài cốt, cô thấy có một điều lạ, là rất nhiều hài cốt không có xương bánh chè. Sau này, tìm hiểu từ các cựu tù Phú Quốc, tôi mới biết, nhiều tù binh cộng sản bị bọn cai ngục dùng đục bóc mất bánh chè khi thẩm vấn.
Tại khu nhà trưng bày chứng tích của nhà tù Phú Quốc ở An Thới, có một tấm hình, chụp một người tù binh cộng sản tuy khá mờ, nhưng khuôn mặt, ánh mắt vẫn lộ rõ nét rắn rỏi, hiên ngang. Bên dưới tấm hình là dòng chú thích: Đồng chí Nguyễn Văn Ni (Bảy Ni, sinh năm 1937, tại Củ Chi), bị đục xương đầu gối và dùng cây sắt nung đỏ đâm xuyên bắp chân.
Vài dòng chữ ngắn ngủi như vậy, chưa đủ nói hết những thảm khốc mà người tù cộng sản kiên trung này đã phải trải qua.
Mặc dù trại giam tù binh Phú Quốc có chế độ ngặt nghèo, tàn ác, nhưng các tù binh cộng sản vẫn không ngừng đấu tranh. Đồng chí Bảy Ni được chọn làm Bí thư Đảng ủy trại giam tù binh Phú Quốc.
Thời điểm năm 1968, tại trại A2, có tên Hương, giám thị trưởng vô cùng tàn bạo. Tên này có ham thích đánh đập tù nhân. Ngày nào hắn cũng phải lôi một vài tù nhân ra đánh đập cho đã tay. Hành hạ các tù nhân càng đau đớn, hắn càng khoái trá. Đến người già, người yếu hắn cũng không tha. Anh em tù binh vô cùng phẫn nộ, nên đề xuất Đảng ủy cho tiêu diệt tên Hương.
Tuy nhiên, đồng chí Bảy Ni đã khuyên anh em nên bình tĩnh, vì giết tên Hương này, thì sẽ lại có tên Hương khác, không thay đổi được gì. Đồng chí khuyên các tù binh nhịn nhục, đấu tranh những thứ lớn hơn.
Nhân kỷ niệm ngày Nam Kỳ Khởi Nghĩa, ngày 23-11-1968, các cuộc đấu tranh trong trại giam hừng hực khí thế. Các tù binh trại A2 tố cáo sự tàn ác của tên Hương. Để ổn định tình hình trại giam, tên thiếu tá Thức đã tát tên Hương vài cái và chấp nhận yêu sách thay giám thị khác.
Thế nhưng, tên giám thị mới còn ác ôn, tàn độc hơn tên Hương nhiều lần. Tên Thức đã thay một tên ác ôn bằng một tên ác ôn gấp ngàn lần, đó là thượng sĩ Bảy Nhu.
Hôm tên Bảy Nhu về nhận nhiệm vụ giám thị trưởng A2, hắn lạnh lùng đi lại, ngó mặt từng phạm nhân. Cứ ngó mặt mũi phạm nhân một lượt, hắn lại ngửa mặt lên trời cười sằng sặc: “Chúng mày đã rơi vào tay ông thì tốt nhất là ngoan ngoãn như con chó, con lợn. Nếu không, ông sẽ cho chúng mày xuống biển làm mồi cho cá mập cả lút. Hừ, rồi chúng mày chờ xem”.
Tên Nhu vừa về nhận trại, liền gọi một số tù binh đến phòng ác ôn để thẩm tra. Một nửa tù binh không thấy quay về nữa, còn một nửa thì được ném về trại với thân thể đầm đìa máu, đinh đóng nát bàn tay, chi chít trên người.
Rồi cũng đến lượt đồng chí Bảy Ni bị tên thượng sĩ Nhu gọi. Chúng đưa đồng chí Bảy Ni đến thẳng Bộ Chỉ huy, tra tấn dã man để hỏi tung tích các đồng chí lãng đạo Đảng ở phân khu.
Tên Nhu chỉ hỏi đi hỏi lại mỗi câu: “Ai là Đảng ủy, ai là Bí thư?”. Cứ sau mỗi câu hỏi, hắn lại đóng một chiếc đinh vào ngón tay đồng chí.
Đóng đinh nát hai bàn tay, thượng sĩ Bảy Nhu tiếp tục đóng đinh xuyên mắt cá chân, chi chít vào đầu gối. Hắn cứ lạnh lùng như không, kê chiếc đinh mười, rồi giương búa đóng thụp một cái. Hắn làm việc này cần mẫn, tỉ mẩn và chính xác như một thợ mộc lành nghề.
Xong màn đóng đinh mà không khai thác được gì, tên Bảy Nhu gọi người mang bếp than và thanh sắt nhọn hoắt đến. Than cháy rừng rực, thanh sắt ủ hồi lâu cũng đỏ lòm.
Hắn lạnh lùng cầm thanh sắt đỏ rực ấy xuyên vào bắp chân đồng chí Bảy Ni. Thanh sắt nhọn, lại nóng ngàn độ, đốt thịt cháy xèo xèo. Thanh sắt nguội, hắn lại cho vào lò than. Đủ độ nóng, hắn lại xuyên tiếp. Cứ xuyên như thế vài lần thì thủng một lỗ ở bắp chân và chín luôn một mảng thịt.
Sau một hồi thẩm tra, thì hai bắp chân của đồng chí Bảy Ni đã chi chít lỗ thủng. Cả hai bắp chân của đồng chí đã bị thanh sắt đỏ rực nướng chín, mùi khét của thịt nồng nặc khắp phòng.
Cứ mỗi lần xuyên thanh sắt nóng vào bắp chân, đồng chí Bảy Ni lại đau đớn ngất xỉu. Thế nhưng, mỗi khi tỉnh dậy, đồng chí không hề kêu la đau đớn, mà luôn miệng mắng chúng là bọn bán nước, dắt quân Mỹ về dày xéo nước nhà, giết hại nhân dân ta. Mắng chúng chán rồi, đồng chí lại hô vang khẩu hiệu: “Đả đảo Mỹ - Thiệu! Hồ Chí Minh muôn năm!”.
Dù xuyên thủng chi chít bắp chân, nhưng không lấy được lời khai nào từ người chí sĩ cộng sản kiên trung, tên thiếu úy quân cảnh Chu Quốc Minh (quê ở Trà Ôn, Vĩnh Long) đã nhận nhiệm vụ đục xương bánh chè của đồng chí Bảy Ni.
Tên này lẳng lặng ra góc phòng lấy chiếc đục, dụng cụ của thợ mộc. Hắn khéo léo chỉnh đục, rồi đóng những cú chính xác. Hắn đóng vài cái thì xương bánh chè tuột khỏi đầu gối đồng chí Bảy Ni. Cả hai miếng xương bánh chè bị đục một cách đơn giản.
Thấy máu chảy lênh láng, đỏ lòm, tên Bảy Nhu làm bộ khuôn mặt thương xót bảo: “Để tao cầm máu cho mày nhé. Chứ máu chảy thế này thì chết mất thôi”.
Rồi Bảy Nhu cầm thanh sắt đỏ lửa châm vào vết đục bánh chè ở đầu gối. Thịt bị đốt cháy xèo xèo, nên máu không chảy nữa. Lúc đó, đồng chí Bảy Ni đã kiệt sức rồi, nhưng vẫn tuôn một tràng mắng mỏ tên Bảy Nhu là đồ bát nước, dày xéo đồng loại.
Tên Bảy Nhu bảo: “Để tao xin mày mấy cái răng làm kỷ niệm”. Hắn đi kiếm đục để lấy răng, thế nhưng, đồng chí Bảy Ni đã ngất xỉu. Chờ mãi không tỉnh, chúng quẳng đồng chí vào phòng biệt giam.
Thân thể bị nát bấy, máu mất nhiều, chỉ nằm một chỗ, nên một thời gian ngắn sau, đồng chí Bảy Ni đã trút hơi thở cuối cùng.
Sau ngày đất nước thống nhất, chính quyền huyện Phú Quốc đã tìm được hài cốt của đồng chí Bảy Ni. Khi cất bốc hài cốt, vẫn thu được mấy cây đinh cắm vào xương cốt đồng chí. Năm 1997, đồng chí được gia đình đưa về quê hương Củ Chi an táng.
Năm 1998, xét đề nghị của Ban Liên lạc cựu tù binh Việt Nam, Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã ký quyết định truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho liệt sĩ Nguyễn Văn Ni.
Đó là sự ghi nhận của đất nước đối với người chiến sĩ cách mạng kiên trung, đã không tiếc mạng sống để đất nước có được như ngày hôm nay.
Ghê rợn trò nhốt đỉa và nướng chín bộ phận sinh dục
Có lẽ, không đâu trên thế giới này mà những đòn đánh đập, tra tấn, áp chế tinh thần lại khủng khiếp như ở nhà tù Phú Quốc.
Tại nhà trưng bày ở nhà tù, hiện còn mô tả 24 ngón đòn tra tấn man rợ mà bọn cai ngục sử dụng để hành hạ thể xác và tinh thần tù binh cộng sản.
Những ngón đòn mà chỉ cần nhắc đến, nhiều người cũng phải rùng mình khiếp đảm: dùng chày đập nát vụn mắt cá chân, đục từng miếng xương bánh chè, dùng ván gỗ và đinh vít ép vỡ lồng ngực, tẩm dầu đốt cháy dương vật, luộc người trong chảo nước sôi hay nướng người trên lửa than rực hồng…
Một trong số ít tù binh cộng sản bị tra tấn khủng khiếp mà vẫn sống sót đến ngày nay là cựu tù Trần Hồng. Ông đã từng gây chấn động trong lịch sử nhà tù Phú Quốc bằng cuộc vượt ngục có một không hai. Ông đã vượt 18 lớp rào kẽm gai giữa thanh thiên bạch nhật dưới hàng ngàn con mắt cú vọ của bọn cai ngục.
Trải qua những thử thách quá thảm khốc, nhưng giờ đây, ngồi giữa phố phường Sài Gòn, ông kể lại cứ bình thản như thường. Cựu tù Trần Hồng cởi manh áo trên người, để lộ vòm ngực chằng chịt dọc ngang những vết sẹo to, sâu như những vết dao chém.
Ông vén hai ống quần khoe hai bắp chân sùi lên những đống sẹo do bọn cai ngục nướng sắt xuyên qua.
Cựu tù Trần Hồng là chiến sĩ cách mạng kiên trung, bị coi là tù binh cứng đầu cứng cổ, nên ông phải trải qua hầu hết những ngón đòn tra tấn độc ác nhất của nhà tù này.
Trần Hồng là người gốc Bình Định. Ông rất giỏi võ cổ truyền. Năm 1968, ông bị bắt ở mặt trận Huế và bị đày ra Phú Quốc khi vừa tròn đôi mươi.
Máu nóng, lại có khí phách thượng võ, nên bọn cai ngục rất… ngứa mắt, nên vừa vào trại, chúng đã cho ông nếm đủ các hình phạt, rồi tống vào khu biệt giam.
Phòng biệt giam được coi là “địa ngục trên mặt đất”. Căn phòng rộng chỉ vẻn vẹn 22 mét vuông, nhưng chúng nhốt tới 197 tù binh. Tính ra, mỗi mét vuông giành cho 8 người. 8 con người phải đứng, ngồi, lom khom chồng chất lên nhau. Hôi hám, bệnh tật, ghẻ lở không tưởng tượng nổi.
Với tham vọng biến tù binh cứng đầu Trần Hồng thành người tàn phế cả thể chất lẫn tinh thần, cứ thi thoảng bọn cai ngục lại lôi ông ra phòng tra tấn ở đầu phòng biệt giam.
Chúng bắt ông đặt tay lên bàn, rồi lần lượt lúc dùng búa, lúc dùng chày nện thẳng cánh rất mạnh vào từng ngón tay. Mỗi cú nện hơi chếch, móng tay ông tuột ra, văng xuống đất, hoặc còn dính da lủng lẳng.
“Biết rằng chúng sẽ bóc hết móng tay, nên chẳng để chúng phải ép, tôi tự động xòe cả bàn tay cho chúng nó đập. Đập hết móng nay rồi chúng nó ném tôi lại phòng biệt giam” – cựu tù binh Trần Hồng bình thản kể.
Khi những ngón tay vừa khô máu, chúng lại lôi ông ra bẻ răng, nướng thanh sắt nhọn chọc thủng bắp chân.
Chúng trói ông lại, ép miệng ông vào cái lỗ tròn của vỉ sắt, rồi kê thước bằng đồng vào miệng ông. Cứ vỗ vào chuôi thước một cái, thì một cái răng văng ra.
Cựu tù Trần Hồng chẳng thèm kêu đau, còn chửi: “Mẹ chúng mày. Oai gì cái lối trói người lại để tra tấn. Giỏi thì ra bìa rừng kia, tao chấp cả chục thằng”.
Tất nhiên bọn hèn nhát ấy chẳng giám đấu với tù binh Trần Hồng. Ngay lập tức, chúng quẳng ông vào chuồng cọp, chuồng chó với mục đích hành ông đến chết.
Chuồng cọp kẽm gai là một hình thức tra tấn làm suy kiệt thể chất và tinh thần của những tù binh cứng đầu. Chuồng cọp được bố trí ngoài trời ở mỗi phân khu, có loại nhốt một người, có loại nhốt đến 5 người.
Có loại người tù chui vào buộc phải nằm dưới cát, có loại nằm trên dây kẽm gai sắc nhọn, có loại chỉ ngồi được, có loại chỉ đứng lom khom. Các tù binh cứ phải giữ tư thế đó cả ngày, cả đêm, cả tuần. Chỉ cần cựa quậy, đổi tư thế là thép gai cứa rách da thịt.
Khi đã vào chuồng cọp là tù nhân phải cởi trần. Ngày thì phơi nắng, đêm dãi sương, trời mưa thì lóp ngóp như cá. Đêm rét thì chúng tặng cho vài xô nước lạnh cho… mát; ngày nắng thì chúng dội nước muối cho… giảm cân. Hôm nào nắng to, chúng đốt thêm lửa ở gần cho… ấm.
Chỉ vài ngày nhốt chuồng cọp, toàn thân tù binh sẽ lột da như cua, như rắn. Da non mọc lên ngứa ngáy khủng khiếp, nhưng rồi lớp da non lại bị đốt cháy và lột tiếp. Nhốt chuồng cọp độ 10 ngày, tù nhân chỉ còn da bọc xương.
Chúng hành hạ tù binh Trần Hồng trong việc ăn uống cũng dã mãn thú tính. Cơm chỉ được một nắm bằng quả trứng, nhưng chúng trộn với cát và nước tiểu. Không ăn thì chúng đánh, nôn ra cũng đánh. Chúng dùng roi cá đuối quất veo véo.
Roi cá đuối phơi khô là thứ khủng khiếp. Khi vụt, lớp gai sẽ móc vào thịt da. Chúng giật mạnh khiến chóc da, tóe máu. Vụt vài cái thì cơ thể bê bết máu. Tranh thủ lúc máu đang chảy, chúng lấy muối ớt xát vào để… tiệt trùng.
Hành hạ ở chuồng cọp khiến nhiều tù binh phẫn uất, không chịu nổi mà phát điên. Có tù binh điên tiết chửi bới bọn cai ngục. Chửi chán thì rạch bụng cho ruột gan thòi lòi ra ngoài, rồi chết trong danh dự.
Riêng tù binh Trần Hồng thì tinh thần vẫn vững như bàn thạch. Lom khom trong chuồng cọp mà ông vẫn luyện khí công.
Chuồng cọp không ăn thua gì, chúng bắt ông lộn vỉ sắt. Tấm vỉ sắt với những lỗ tròn, đầy gai, mấu. Chẳng cần ép, cựu tù Trần Hồng tự cởi áo, cắm đầu lộn vỉ sắt. Lộn vài vòng thì lưng rách toác nham nhở, máu me bê bết. Tóc bị lột cả mảng. Khi ông bất tỉnh, không lộn nổi nữa, thì chúng quẳng lại phòng biệt giam.
Anh em, đồng chí trong tù xót ruột, người nhường nước lau vết thương, người nhường quần áo, nhưng cựu tù Trần Hồng gạt đi: “Mặc làm gì. Mặc vào nó đánh lại rách nữa”.
Đảng ủy phát hiện một tên chỉ điểm trà trộn vào phòng biệt giam, Trần Hồng đã xin khử tên này. Ông cùng một người tù nữa trùm áo lên đầu hắn rồi bóp cổ đến chết.
Giết hắn rồi thì khiêng xuống nhà bếp dúi đầu vào bến than đang cháy. Hôm sau, bọn cai ngục phát hiện, thì mọi người thống nhất khai: “Nửa đêm lạnh quá tù nhân này mò xuống bếp sưởi đã trúng gió, gục đầu vào bếp than chết”.
Tên giám thị vằn mắt: “Chúng mày giỏi lắm. Giờ tao sẽ cho chúng mày chui đầu vào lò lửa xem có chết cảm không”.
Nói xong, hắn cầm dùi cui gõ vào đầu từng người. Gõ vào ai, thì có nghĩa người đó ra khỏi phòng. Các cựu tù trong phòng đều tin chắc chúng sẽ giết cho đến khi tìm ra người sát hại tên chỉ điểm.
Trong hoàn cảnh đó, tù nhân Trần Hồng đứng lên bảo: “Không phải tra khảo gì cả. Chính tao đã giết nó”.
Ngay lập tức, tên giám thị đưa Trần Hồng xuống phòng tra khảo của Bộ chỉ huy nhà tù. Tại đây, chúng áp dụng cực hình chưa từng được sử dụng ở nhà tù này.
Hai thằng cai ngục lột truồng ông Trần Hồng, rồi trói nghiến ông vào cái cọc chôn giữa phòng tra khảo. Một tên dùng dao lam rạch một đường thật sâu, dọc theo dương vật. Máu chảy ròng ròng xuống sàn nhà.
Hắn mở hộp sắt, lấy ra con đỉa trâu to bằng ngón tay, đen bóng nhầy nhẫy. Loài đỉa Phú Quốc hút máu rất mạnh. Khi nó xơi no, cơ thể bằng ngón tay của nó sẽ trương lên bằng cổ tay.
Chúng nhét con đỉa vào vết rạch, rồi khâu kín lại. Nằm trong máu, nên con đỉa tha hồ hút. Chỉ một lúc, nó đã phình to và cựa quậy cơ thể căng phình của nó. Nó lớn nhanh chả khác gì bơm xe. Dương vật cựu tù căng nhức như muốn nổ tung, buốt tận óc.
Lớp da ngoài dương vật rách dần theo độ lớn của con đỉa. Con đỉa bên trong vẫn không ngừng hút máu, cựa quậy. Đau quá, ông Trần Hồng ngất xỉu, không biết gì nữa. Lúc tỉnh dậy, nhìn xuống, chỉ thấy một nhúm thịt tơi tả. Trong lúc ông ngất xỉu, chúng đã triệt sản ông.
Một tù binh nữa, cũng bị chúng hành hạ khủng khiếp không kém gì ông Trần Hồng, đó là tù binh Tô Hồng Minh.
Tên trung sĩ Điền và trung sĩ Nghĩa đánh đập tra khảo ông Minh mãi không được gì, chúng liền đổi cách. Chúng lột quần ông Minh, bắt ngồi dạng giữa hai ghế kê cạnh nhau.
Tên trưởng trật tự Dương Văn Hai bưng vào phòng một chiếc đĩa đựng bột màu đen, đặt phía dưới ghế. Hắn bật diêm, chiếc đĩa bùng lên thành ngọn lửa.
Chỉ một lát sau, bộ phận sinh dục của cựu tù này bị nướng chín, nứt da, nhỏ mỡ xuống đĩa cháy xèo xèo. Tù binh Tô Hồng Minh ngất lịm. Bộ phận sinh dục của ông đã bị nướng chín.
VỒ SẦU ĐỜI, GẬY BIỆT LY VÀ KỸ NGHỆ ĐỤC RĂNG TÀN BẠO
Một ngày, có một cựu tù binh Phú Quốc đến Bảo tàng chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày ở Phú Xuyên (Hà Nội) tặng… 8 chiếc răng. Chuyện bảo tàng tư nhân này trưng bày 8 chiếc răng, cùng với lá thư nghuệch ngoạc, đã gây chấn động dư luận một thời. Sau mấy mươi năm hòa bình, mà cả nước vẫn còn sững sờ bởi những câu chuyện tra tấn khủng khiếp ở nhà lao Phú Quốc.
Vài ngày sau khi ông Vũ Minh Tằng lặn lội lên tận Hà Nội tặng răng, tôi cùng lương y Phạm Văn Thanh về thôn Tiên Hào (Vĩnh Hào, Vụ Bản, Nam Định) gặp ông. Lương y Thanh bắt mạch, khám bệnh, bốc thuốc cho ông Tằng.
Anh lần sờ những vết thương trên cơ thể người cựu tù, vẫn thấy lạo xạo xương vỡ, lộm cộm những mảnh đạn trong người. Ngay hốc mắt của ông vẫn còn mảnh đạn mà ai sờ cũng thấy. Lương y Thanh cứ lắc đầu không hiểu vì sao người tù cộng sản này vẫn sống được qua những đòn tra tấn khủng khiếp như thế.
Ngôi nhà ngói dột nát ở Tiên Hào có 3 con người bệnh tật, héo hon. Vợ ông Tằng, bà Nguyệt suốt ngày chỉ ngồi trên giường, thi thoảng bò lê ra ghế. Bà bị viêm khớp nặng quá, đầu gối sưng tấy như quả bưởi, không đi lại nổi. Chẳng có tiền mua thuốc, khám bệnh, nên mặc kệ căn bệnh tác quái.
Người em trai của ông Tằng là Vũ Văn Mỹ, hơn 60 tuổi, mà vẫn như một đứa trẻ, tật nguyền và ngây dại. Năm 10 tuổi, Mỹ trèo cây cau bắt chim, bị ngã gẫy cột sống. Không được chữa trị kịp thời nên bại liệt, mất trí. Vợ chồng ông Tằng thay nhau chăm bẵm người em suốt 50 năm qua.
Ông Tằng lấy vợ năm 1958. Vợ chuẩn bị sinh người con thứ hai thì ông xung phong vào chiến trường. Trong trận quyết chiến ở hang Đá Chẹt (Quảng Ngãi), bị địch tập kích, một viên đạn trúng đầu, vỡ hộp sọ, nhưng ông vẫn nã đạn diệt địch.
Không khuất phục được nhóm bộ đội cứng đầu, địch ném lựu đạn hơi cay. Lúc tỉnh dậy, ông đã thấy nằm trên máy báy ra nhà tù Phú Quốc.
Từ năm 1968, ông Tằng cùng đồng đội chính thức rơi vào cảnh sống ở địa ngục trên trần gian, nếm trải đủ mọi hình phạt khủng khiếp.
Vào trại, ông Tằng được Đảng ủy phân công làm Bí thư Chi bộ phân khu 2. Ông Tằng cũng là người tổ chức cho anh em vượt ngục. Sau hơn một năm dùng thìa, dĩa đào từng nhúm đất, 100 tù binh đã đào tẩu ra ngoài. Một số lạc trong rừng, bệnh tật chết, một số bị bắn chết, một số theo dân chài trốn được vào đất liền, tiếp tục hoạt động cách mạng.
Riêng ông Tằng chưa kịp độn thổ thì cuộc vượt ngục bại lộ. Ông cùng nhiều chiến sĩ cách mạng được giao cho ác quỷ Bảy Nhu tra tấn.
Xác định rơi vào tay Bảy Nhu thì kiểu gì cũng chết, nên ông Tằng vui vẻ chấp nhận, xác định rõ tư tưởng. Chúng tra khảo kiểu gì, ông cũng chẳng khai, nhận tất chủ mưu cuộc vượt ngục về mình.
Bảy Nhu lạnh lùng bảo: “Mày được lắm. Có khí chất người cộng sản. Tao sẽ cho mày nhấm nháp cái chết từ từ. Giờ mày muốn nộp răng nào?”. Ông Tằng nhìn vào mặt Bảy Nhu bảo: “Mạng tao trong tay mày, mày thích lấy cái nào thì tùy”.
Ông Tằng nhe răng, hắn đưa cây gậy nhỏ vào miệng ông Tằng, rồi điệu nghệ như gã thợ mộc lành nghề. Cứ gõ đục vào đầu gậy, cục một cái, thì một chiếc răng của ông Tằng bật ra.
Bình thường, Bảy Nhu bắt tù binh nhè răng ra để hắn dùng làm toòng teng đeo cổ, hoặc đựng vào ống bơ, còn máu thì phải nuốt ngay vào bụng kẻo bẩn phòng tra tấn, nhưng riêng với ông Tằng thì hắn bắt nuốt cả răng lẫn máu.
Đục 3 cái rồi, mà ông Tằng vẫn thản nhiên để hắn đục, chả thành khẩn khai báo gì, nên hắn chuyển phương án khác, cho ông Tằng tự chọn răng. Bảy Nhu bảo: “Tao cho mày quyền chọn răng hiến tặng. Mày kê nhầm, mất vài cái thì đừng có trách”.
Hắn đưa cho ông Tằng cây gỗ nhỏ hơn, bắt ông cắn chặt cây gỗ đó. Hắn cầm vồ đập từ trên xuống, thì chiếc răng hàm trên văng ra, còn đập từ dưới lên, thì răng hàm dưới văng ra ngoài. Cứ thế, hắn đục rụng 9 cái răng của tù binh Vũ Minh Tằng.
Cứ cái răng nào rơi ra, ông Tằng lại nhặt bỏ vào miệng. Không hiểu tên Bảy Nhu đập kiểu gì, mà răng tuột cả chân, nuốt cứ vướng ở họng. Nuốt mãi không được, chúng vạch miệng đổ nước cho trôi cả vào dạ dày.
Bẻ răng xong, chúng ném ông về phòng biệt giam cho hồi sức. Mỗi lần đại tiện, ông lại bới phân tìm răng. Mấy lần tìm kiếm, mà chỉ thấy 8 chiếc. Cách đây mấy năm, đi chiếu chụp ở bệnh viện, mới biết còn chiếc răng nữa dính chặt ở dạ này. Chân răng nhọn quá, xuyên thủng dạ dày, rồi cứ nằm đó mấy chục năm nay.
Theo cựu tù Vũ Minh Tằng, màn lấy răng của Bảy Nhu là đòn tra tấn nhẹ nhất trong tổng số khoảng 30 ngón đòn mà bọn cai ngục áp dụng với tù binh Phú Quốc. Đó cũng là màn khởi đầu nhẹ nhất mà ông phải trải qua.
Sau khi chờ ông Tằng hồi tỉnh, cai ngục Bảy Nhu tiếp tục gọi ông lên để tra tấn. Những lúc như thế, ông mới trộm nghĩ, đồng đội của mình bị chúng đứng trên chòi cao nã đại liên hoặc cối 82 ly hóa ra lại hay. Chỉ đoàng cái là được đoàn tụ với ông bà, tổ tiên. Cái chết kiểu từ từ thế này đúng là khủng khiếp.
Ông Tằng lôi hàm răng giả đặt trên mặt bàn móm mém bảo: “Đến giờ tôi vẫn không tin là mình sống được đâu. Tôi cùng anh em cựu tù trải qua những cực hình ở nhà lao Phú Quốc rồi mới hiểu vì sao không giặc nào đè bẹp được ý chí của người Việt mình. Ngày xưa, rồi mãi mãi, sẽ chẳng có kẻ thù nào khuất phục được người Việt”.
Khi tên Bảy Nhu đứng ở cửa phòng biệt giam, ông Tằng đã đứng lên món mém hỏi lại: “Mày gọi tao đi tra tấn hả?”. Hắn lạnh lùng gật đầu. Thế là ông Tằng lững thững đi theo hắn.
Đến phòng ác ôn, hắn lôi từ góc phòng ra mấy thứ và giới thiệu công năng từng thứ một. “Đây là chày vồ, đây là gậy. Tao dùng chày vồ đánh vào mắt cá cho ngon cơm. Đây là gậy bỏ cháo, đây là gậy sầu đời, gậy biệt ly, gậy sanh tử. Ngày nào không đánh tụi bay là tao ăn cơm không ngon”.
Súng đạn ông Tằng còn chả sợ, nên nhìn những chiếc gậy, chày vồ ấy, ông Tằng tỉnh queo, coi thường. Thế nhưng, nếm trải những ngón đòn ấy, ông Tằng mới thấy khủng khiếp. Nếu kêu la, khóc lóc thì còn xả được đau đớn, đằng này người tù cộng sản đều phải nghiến răng chịu đựng, thậm chí đau ngất lịm mà vẫn phải làm mặt lạnh, coi thường đòn tra tấn của chúng.
Chiếc chày vồ được Bảy Nhu chế tác như chiếc chày giã gạo, cầm vừa tay, còn gậy thì to nhỏ từng loại. “Gậy bỏ cháo” có nghĩa là đánh người nào thì người đó không những cơm không ăn nổi mà cháo cũng bỏ luôn, “gậy sầu đời” là đánh xong thì tàn phế, rầu rĩ cả đời, “gậy sanh tử” gồm hai đầu, đánh bằng đầu sanh thì còn hy vọng sống, còn đánh bằng đầu tử thì chỉ có chết.
Bảy Nhu cho người khiêng tấm sắt lỗ tròn sắc lẻm đến, nhét chân ông Tằng vào. Đau thế nào người tù cũng phải ngồi im, vì giãy chân là tấm sắt cứa rách chân, toạc da, máu chảy lênh láng.
Bảy Nhu cầm chày vồ đập từng nhát dứt khoát vào mắt cá chân. Đập vài nhát thì mắt cá hai bên chân vỡ vụn. Hắn tiếp tục nhẩn nha đập xương bánh chè ở đầu gối, rồi khuỷu tay, bả vai. Khi ông Tằng ngất thì hắn dừng, tỉnh hắn đập tiếp. Cứ hết gậy lại đến chày, hắn đập đến khi xương khớp trên cơ thể ông Tằng nát vụn hết thì dừng tay.
Vài hôm sau, đợi ông Tằng tỉnh táo, hắn cho người khiêng ông lên phòng ác ôn và tiếp tục hành hạ. Lần này thì những chiếc đinh 10 được đóng chi chít vào ống chân, ống tay, đầu gối. Tổng cộng có đến mười mấy hình phạt thảm khốc mà tù binh Vũ Minh Tằng phải trải qua.
Sau khi nếm đòn chuồng cọp, thì cơ thể vốn đã suy kiệt của ông Tằng chỉ còn lại nguyên bộ xương, với lớp da bó sát xương ở ngoài. Ngày vào quân ngũ, ông nặng ngót 70kg, cao 1,75m, nhưng lúc trao trả tù binh, đồng đội dìu lên cân, cả quần áo, cùng 8 chiếc răng dắt cạp quần chỉ có 23kg.
Ông Tằng nhớ lại: “Tôi được nếm gậy biệt ly mấy lần mà không chết. Lúc quẳng vào biệt giam, thằng Nhu còn khen tôi là sống dai như đỉa. Tôi sống được là nhờ ăn phân, uống nước đái đấy chứ.
Sau khi bị tra tấn, ném vào phòng biệt giam, nó cũng mang cơm đến cho, nhưng nó trộn phân người và nước tiểu, cốt để mình không dám ăn rồi chết đói. Nhưng tôi và anh em cứ nhắm mắt nhắm mũi mà ăn. Nó không cho nước, nên anh em nào tiểu tiện ra, thì chia nhau mỗi người một ngụm, không bỏ phí giọt nào. Thế mới sống được để tiếp tục đấu tranh chứ”.
Cai ngục ác quỷ và những kỹ nghệ giết người tàn bạo
Trong suốt thời gian gặp gỡ các nhân chứng, thu thập tư liệu, đặc biệt là các ngón đòn tra tấn, tôi thấy các tù binh cộng sản Phú Quốc nhắc nhiều đến cai ngục Bảy Nhu.
Theo ông Vũ Minh Tằng, việc nhồi nhét tù binh cũng là đòn tra tấn tập thể khủng khiếp mà cai ngục Bảy Nhu thường thực hiện. Hắn cùng với nhóm quân cảnh thường tìm mọi cách nhồi nhét tù binh, với mục đích khiến các cựu tù ngột ngạt mà chết. Hắn báo cáo cấp trên rằng tù binh chết vì bệnh tật.
Chuồng cọp chỉ rộng có 24m2, mất 2m2 làm gian tra khảo, chỉ còn lại 22m2, trần cao 1,8m, mà hắn lèn tới 300 người. Thiếu không khí để thở, nên các tù binh liên tục chết. Có ngày, một chuồng cọp chết tới 70-80 người.
Hàng ngày, chúng đi kiểm tra, tù binh nào chết thì chúng khênh lên máy bay rồi ném xuống biển. Hắn không quên nhồi thêm tù binh mới cho đủ số lượng kinh khiếp ấy.
Nhiều khi, xem xét các chuồng cọp, thấy lèn chặt tù binh như vậy mà không chết ai, hắn cho đám quân cảnh nã cối 82 ly. Chỉ trong tích tắc, mấy chục tù nhân tan xác. Chúng kéo xác vào rừng, đào hố sâu, rồi chôn tập thể các chiến sĩ cách mạng.
Bảy Nhu tên thật là Trần Văn Nhu, sinh năm 1926, ở Đồng Tháp. Ngay từ nhỏ, hắn đã thích trò đấm đá, đánh giết, nên 18 tuổi, hắn đi lính cho Tây.
Chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ, hắn được đưa sang quân cảnh rồi ra Phú Quốc, làm giám thị trưởng phân khu B2 rồi A2.
Chỉ trong vòng 1 năm, nhờ những thành tích “bất hảo” trong việc tra khảo, đánh đập tù nhân mà hắn được thăng cấp thượng sĩ nhất và cất lên làm trưởng giám thị khu biệt giam 2. Vậy nên, hắn còn được gọi là Nhứt Nhu.
Chính tại nơi đây, hắn đã sáng tạo ra những đòn tra tấn có một không hai kinh hoàng khiến lũ cai ngục tôn hắn lên hàng sư phụ.
Kỹ nghệ tra tấn nổi danh ở nhà lao Phú Quốc do Bảy Nhu sáng tạo gồm đục răng, đục bánh chè, vồ sầu đời, gậy biệt ly, gậy sanh tử… Đã có tổng số khoảng 10.000 tù nhân Phú Quốc bị hắn và cai ngục đập nát mắt cá chân.
Có một điều không tin nổi ở ác quỷ Bảy Nhu, là hắn theo đạo Phật. Hắn ăn chay trường, có cả bàn thờ trong phòng riêng, suốt ngày khói hương nghi ngút. Đêm hắn lần tràng hạt, tụng kinh, nhưng ngày biến thành ác quỷ. Ngày nào không đập vỡ xương tù nhân, không đóng vài cây đinh vào người tù nhân, hắn ăn không ngon.
Hắn thường ít nói, ít hỏi, ít đe dọa và lạnh lùng thực hiện các đòn tra khảo, các kỹ nghệ giết người tàn độc. Hắn ngồi đục xương bánh chè, đóng đinh vào người tù binh, khiến tù binh la hét đau đớn, chửi bới hắn, nhưng mặt hắn không đổi sắc diện, không giận dữ, thậm chí còn tỏ vẻ khôi hài.
Trong 10 năm làm cai ngục, hắn đã đục được một thúng răng của tù binh. Hắn giữ thúng răng đó trong phòng. Có lúc, hắn hứng chí xâu chuỗi răng đeo cổ, hoặc dùng làm tràng hạt lúc tụng kinh.
Sau này, khi ra tù, chẳng biết có phải hắn ân hận với tội ác gây ra, hay chỉ là vẫn theo đạo Phật, mà từ đó đến nay, trong nhà hắn lúc nào cũng nghi ngút khói hương, tiếng tụng kinh gõ mõ vang lên đều đặn.
Bảy Nhu vẫn sống trong căn nhà cách di tích nhà tù Phú Quốc không xa. Căn nhà Bảy Nhu ở rộng rãi như một gia trang, với cổng kín then cài, ít tiếp khách, không tiếp người lạ. Trong sân vườn nhà ông ta có khá nhiều tượng Phật.
Ngoài những đòn tra tấn áp dụng đại trà, thì Bảy Nhu có nhiều đòn kinh khiếp áp dụng cho những tù binh “cứng đầu”.
Cựu tù Tô Hồng Minh và Ba Vạn bị Bảy Nhu áp dụng đòn tra khảo kinh khiếp không tưởng tượng nổi. Hắn đốt cháy bộ phận sinh dục của ông Minh để triệt đường sinh sản.
Ông Ba Vạn không chịu khai, hắn bắt ông nằm ngửa, căng miệng, rồi đổ chất bột đen vào miệng. Hắn phóng hỏa. Chất bột trong miệng cháy đùng đùng, đốt cháy lưỡi và chín toàn bộ khoang miệng.
Ông Ba Vạn ngất xỉu thì hắn ném về phòng giam. Lúc tỉnh dậy, mọi người hỏi, ông không nói được gì, cứ chỉ tay vào miệng. Ú ớ mấy tiếng thì ông ra đi vĩnh viễn. Cựu tù nào không khai, hắn đều đốt miệng cho im lặng đến hết đời.
Tù binh Đặng Văn Bê, quê ở Tiền Giang, là một trong số cả ngàn tù binh bị Bảy Nhu và bọn cai ngục hành hạ đến chết.
Chúng dùng chiếc chày vồ nện vỡ hết mắt cá chân, khuỷu tay, vai, đóng đinh vào khắp người anh Bê. Đau đớn, căm phẫn, anh Bê chửi vào mặt hắn là kẻ bán nước, hại dân, là ác quỷ hiện hình.
Hắn chẳng nói chẳng rằng, lấy bao tải xanh trùm kín người, rồi nắm miệng bao lôi xềnh xuống nhà bếp. Trên bếp lửa rực hồng, một chảo nước lớn đang sùng sục sôi.
Chúng khiêng anh Bê lẳng vào chảo nước. Anh giãy dụa trong bao tải vài phút thì chết. Luộc chín anh rồi, chúng mới vớt ra. Mở bao tải, đổ ra ngoài, da thịt người cựu tù tuột trắng lốp. Người tù cộng sản kiên trung ra đi vĩnh viễn ở tuổi 23.
Luộc chết anh Bê xong, hắn lại lôi anh Mỹ (người Thừa Thiên Huế) vào nhà bếp. Chúng đổ thêm nước vào chiếc chảo vừa luộc anh Bê rồi chờ cho chảo nước sôi sùng sục.
Nhìn chảo nước sôi mà người tù cộng sản kiên trung tên Mỹ chỉ cười nhếch mép, không thèm quỵ lụy, khai báo. Chúng lấy bao tải trùm lên người anh, đạp anh ngã, rồi buộc chặt lại. Hai tên lấy sức khênh bao tải ném vào chảo nước. Thấy anh giãy dụa, chúng dùng cây gậy ấn mạnh cho chìm sâu xuống chảo nước lớn.
Cũng trong thời gian đó, ở phân khu C6, có 3 tù binh bị chúng luộc chết. Do bị bọn quân cảnh đánh đập dã man, nên 3 tù binh cộng sản phản ứng đánh lại chúng, khiến một quân cảnh bị thương.
Để cảnh cáo các tù binh khác, chúng trói 3 anh ngay cổng phân khu, đánh đập suốt ngày. Đánh đấm đến khi mệt, chúng làm 3 chiếc lò, đặt 3 chảo nước lớn đun sôi. Nước sôi sùng sục, chúng lần lượt dùng bao tải trùm kín từng người, rồi quẳng vào chảo luộc chín. Chúng ninh nhừ cả 3 chiến sĩ cộng sản.
Không chỉ luộc tù binh trong chảo, mà chúng còn có màn “vặt lông gà”, đó là dội nước sôi. Để tù binh chết nóng một cách chậm rãi hơn, chúng trói anh Xô lại, rồi mỗi tên một chiếc ca. Chúng múc nước sôi dội lên người anh, cho đến khi anh tuột da chết thảm.
Khủng khiếp hơn trò luộc chín tù binh cộng sản là thú vui giết người tàn bạo bằng trò “bê quay”. Tên Nhu cùng đám quân cảnh lôi du kích trẻ người Cà Mau ra lấy lời khai. Chẳng làm người du kích này hé răng, nên chúng áp dụng hình phạt thảm khốc nhất.
Tên Bảy Nhu sai đám quân cảnh dựng một cái giàn “nướng bê” cao 0,8m. Thay vì kiếm con bê, hắn lột trần anh du kích này, rồi buộc chặt anh với hai thanh sắt. Thanh sắt được hàn song song với nhau.
Chúng nhóm lửa bằng củi dưới mặt đất. Lửa cháy ngùn ngụt, thành một đống than hồng rực phía dưới. Chúng khênh người du kích này đặt lên giàn rồi quay đều như nướng bê.
Hơi nóng khủng khiếp từ đống than bốc lên khiến người du kích đau đớn tột độ. Anh không những không khai báo, mà lấy chút hơi sức cuối cùng để chửi bọn khốn nạn. Khi lớp da cháy vàng, mỡ chảy xuống đống lửa xèo xèo, mà anh vẫn còn sức chửi bọn bán nước. Người du kích kiên trung này đã bị chúng nướng cho đến khi chín hẳn.
Ngoài những trò tra tấn khủng khiếp như trên, cai ngục Bảy Nhu còn vô số kỹ nghệ giết người dã man nữa, như chôn sống, chiếu điện cao áp vào mặt cho đến chết, rà đèn điện cho mù mắt, đổ nước xà bông nấu sôi vào miệng cho chín lưỡi, họng…
Chuyện chưa biết về những cuộc tàn sát đẫm máu ở Phú Quốc
Trong hành trình tìm kiếm những hố chôn tập thể tù nhân cộng sản ở Phú Quốc, đã có nhiều đại lễ cầu siêu được tổ chức trọng thể và xúc động. Các lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước, cùng hàng vạn người dân thành kính đã tham gia bày tỏ niềm xúc động và xót thương vô hạn.
Trong số 40.000 tù nhân cộng sản ở địa ngục trần gian này, có tổng cộng hơn 4.000 người đã phải hứng chịu cái chết tức tưởi, xót lòng. Nhưng đau xót hơn nữa, là cho đến tận hôm nay, khi đất nước đã hòa bình được ngót 40 năm, mà mới chỉ có 1.067 hài cốt của các tù binh cộng sản trong nhà lao Phú Quốc được tìm thấy.
Phần lớn số hài cốt liệt sĩ được tìm thấy trong các hố chôn tập thể. Các liệt sĩ được đưa về nghĩa trang, được thờ phụng. Dù hầu hết những liệt sĩ này vẫn là vô danh, nhưng họ còn may mắn hơn 3.000 liệt sĩ khác.
Theo ông Vũ Minh Tằng, sau mỗi cuộc tàn sát tù binh, chúng khênh xác tù binh chất lên máy bay rồi ném ra biển cho cá mập ăn. Chính cai ngục Bảy Nhu vẫn thường dọa anh em tù binh rằng sẽ giết hết rồi ném xác xuống biển.
Cô Vũ Thị Minh Nghĩa vừa gẩy đất tìm xương cốt các liệt sĩ vừa rưng rưng nước mắt. Cô bảo, từ các cuộc khai quật hố chôn tập thể này, có thể thấy rằng, bọn cai ngục Phú Quốc thường xuyên tổ chức các cuộc tàn sát tập thể, giết hại hàng trăm tù binh.
Chúng đào sẵn những hố sâu cả chục mét, rộng cả trăm mét vuông trong rừng để chôn các chiến sĩ cách mạng. Cứ sau mỗi cuộc tàn sát, chúng ném xác tù binh xuống, rải hóa chất cho nhanh phân hủy, rồi lấp một lớp đất. Vài hôm sau, có cuộc tàn sát mới, chúng lại ném xác tù binh xuống. Mỗi hố chôn tập thể có vài lớp xương cốt tù binh là vì thế.
Từ những cuộc khai quật hài cốt ở các hố chôn tập thể, lật lại lịch sử, tìm gặp các nhân chứng, chúng tôi thực sự hãi hùng trước sự tàn sát tù binh cộng sản của bọn cai ngục máu lạnh.
Cuộc “hủy diệt” đẫm máu diễn ra vào một buổi sáng đầu tháng 7-1965 vẫn còn in đậm trong tâm trí các cựu tù binh Phú Quốc. Hôm đó, địch cho tập hợp toàn bộ tù binh thành một hàng dài rồi bắt chào cờ ba sọc, bắt hô “Đả đảo Đảng cộng sản Việt Nam”.
Những người lính kiên trung gan vàng dạ sắt đứng lặng như tượng, không ai giơ tay chào cờ, cũng chẳng ai lên tiếng. Nhiều đồng chí còn hô vang khẩu hiệu: “Đảng cộng sản muôn năm! Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm”. Người thì hô vang: “Đả đảo Mỹ - Diệm”.
Điên tiết, bọn cai ngục như chó dại xông đến đánh đập bằng báng súng, dùi cui. Uất quá, các tù binh vùng lên đánh trả, bất chấp mạng sống. Tiếng súng vang rền.
Khi khói súng tan, các tù binh nằm sõng xoài trên đất, máu chảy lênh láng. Cả thảy 78 tù nhân đã hi sinh.
Cũng vào mùa mưa năm đó, bọn cai ngục đối xử quá tàn tệ, tra tấn giết hại mấy chục tù nhân, nên Đảng ủy phát động tuyệt thực để yêu cầu cai ngục chấm dứt việc hành hạ.
Những lần trước, tuyệt thực vài hôm thì địch buộc phải nhân nhượng giải quyết. Nhưng lần này đã kéo dài đến ngày thứ 11 mà chúng mặt kệ.
Đúng lúc đó, có một phát đoàn chữ thập đỏ quốc tế đến kiểm tra. Bọn cai ngục xuống nước năn nỉ tù binh chấm dứt tuyệt thực, nhưng tù binh không nghe, yêu cầu chúng phải thực hiện đúng công ước Geneve về chính sách đối đãi với tù nhân chiến tranh, thì mới chấp nhận thôi tuyệt thực.
Cáu tiết, bọn cai ngục dùng dùi cui, súng ống nhằm những tù binh bệnh tật, đói lả, tiều tụy đánh đập. Uất quá, một số anh em nổi dậy cướp súng đánh lại chúng.
Bị đánh trả bất ngờ, bọn quân cảnh bỏ chạy ra ngoài. 4 khẩu đại liên trên chòi canh xối đạn như mưa vào phòng giam.
15 phút sau, tiếng súng ngưng, hơn 100 xác tù nhân được khênh ra ngoài, máu chảy ngập ngụa phòng giam. Các các tù nhân được chúng khênh lên xe, chở vào trong rừng, ném xuống hố chôn nào chẳng rõ.
Trong ký ức các tù binh cộng sản Phú Quốc, thì cuộc tàn sát khủng khiếp nhất của bọn cai ngục diễn ra vào sáng 6-5-1972.
Hôm đó, chúng bất ngờ cho tập hợp toàn thể tù nhân phân khu B8 ra ngoài sân trống để lục soát toàn phân khu sau khi nghe tin mật báo trong phân khu đang có cuộc đào hầm vượt ngục.
Chúng cho người lùng sục khắp phân khu, săm soi từng tấc đất, bới móc từng xó xỉnh. Anh em tù nhân ngồi chầu trực suốt mấy tiếng đồng hồ dưới cái nắng nóng như đổ lửa. Vừa đói, vừa khát.
Cuộc lùng sục kéo dài đến tận trưa mà không mang lại kết quả gì. Mãi đến 11 giờ địch mới cho anh em tù nhân trở vào phân khu rồi đưa lương thực, thực phẩm đến cho họ nấu nướng. Số lượng tù nhân quá đông, lại nấu bằng chảo gang lớn nên đến tận chiều anh em mới được ăn bữa sáng.
Do ăn chậm, nên bọn giám thị và quân cảnh kéo vào trong trại đánh đập tù nhân. Uất ức quá, anh em vùng lên đánh lại. Bọn chúng sợ hãi bỏ chạy. Những tên bên ngoài nổ dung yểm trợ.
Đạn rít veo véo, cát bụi mịt mù. Chỉ trong khoảnh khắc ngắn, 248 tù binh bị trúng đạn, người chết, người thương. Đây là cuộc tàn sát lớn nhất trong lịch sử nhà tù Phú Quốc.
Trong quá trình đi kiếm nhân chứng, thu thập tư liệu, chúng tôi đã gặp gỡ Thiếu tướng Lê Phú Cường, cựu tù nhân Phú Quốc. Qua câu chuyện kể của ông, sự thật kinh hoàng về một vụ giết người hàng loạt bằng cuốc xẻng, cán búa, dùi cui, báng súng R15… rồi chôn tập thể vào mùa mưa năm 1970 đã được hé lộ.
Tác giả của vụ thảm sát dã man ấy là tên đồ tể hạng bự khét tiếng, thiếu tá Mã Sinh Quy, người Nùng, tiểu đoàn trưởng quân cảnh số 7.
Hôm đó, đảo Phú Quốc trời tối sầm, giông gió nổi lên. Tên Quy huy động hàng trăm trại viên quân kỷ, là lính quân đội Sài Gòn bị kỷ luật vào rừng đào một cái hố rộng. Đào xong, hắn đuổi đám lính này về trại.
Trên 100 lính quân cảnh từ tiểu đoàn quân cảnh số 7 từ khắp các đại đội cùng hắn lăm lăm lưỡi lê, súng ống đến các trại giam. Hắn tuyển chọn đủ 100 tù binh, gồm những người bệnh tật, ốm yếu.
Hắn lùa các tù binh ra miệng hố mà đám trại viên quân kỷ vừa đào. Chẳng nói chẳng rằng, hắn hét to: “Giết”. Tức thì cả bọn quân cảnh như bầy sói dữ, vác cuốc, xẻng, búa lao đến cứ thế nhằm đầu tù binh mà bổ. Tù binh nào chống cự liền lĩnh trọn loạt đạn.
Những chiếc búa, rìu, xẻng bổ thẳng vào đầu, khiến máu đỏ với óc phọt tóe loe. Nhiều tù binh nhảy xuống hố tránh rìu, xẻng. Chúng khênh xác quẳng xuống hố, đè lấp cả người sống.
Đất từ miệng hố ào ào trút xuống, chôn cả người chết lẫn người sống. Nhiều tù binh gượng sức bới đất ngoi lên tìm không khí để thở. Đám quân cảnh lập tức xông đến bổ thẳng xẻng vào đầu cho chết, rồi lấp đất kín.
Trong buổi cầu siêu cho 4 ngàn liệt sĩ, gồm cả linh hồn 3 ngàn liệt sĩ vẫn còn nằm trong lòng đất hoang lạnh, hoặc mãi mãi dưới biển sâu, cô Vũ Thị Minh Nghĩa rưng rưng xúc động: “Hàng ngàn người tù xấu số đã bị ném xuống Vịnh Thái Lan làm mồi cho cá dữ và đáy biển sâu, nên việc đưa họ trở về là không thể. Việc kiếm tìm cho đầy đủ cơ số hàng nghìn người đã chết vì địa ngục trần gian nhà tù Phú Quốc là một nhiệm vụ thiêng, cao quý nhưng không thể hoàn thành”.
Phạm Dương Ngọc (Bài viết tham khảo nhiều tài liệu của nhà báo Hoàng Anh Sướng)
同時也有2部Youtube影片,追蹤數超過67萬的網紅Feedy VN,也在其Youtube影片中提到,Ẩm thực luôn được coi trọng hàng đầu trong mỗi dịp Tết đến xuân về với các món ngon mang đậm hương vị cổ truyền dân tộc. Hôm nay Feedy sẽ hướng dẫn cá...
「món an ngon, lạ miệng từ thịt lợn」的推薦目錄:
- 關於món an ngon, lạ miệng từ thịt lợn 在 Phạm Dương Ngọc Vlog Facebook 的精選貼文
- 關於món an ngon, lạ miệng từ thịt lợn 在 Phạm Dương Ngọc Vlog Facebook 的最佳解答
- 關於món an ngon, lạ miệng từ thịt lợn 在 Phạm Dương Ngọc Vlog Facebook 的最讚貼文
- 關於món an ngon, lạ miệng từ thịt lợn 在 Feedy VN Youtube 的最佳解答
- 關於món an ngon, lạ miệng từ thịt lợn 在 Small Kitchen Corner Youtube 的最讚貼文
- 關於món an ngon, lạ miệng từ thịt lợn 在 TOP 10 món THỊT LỢN (THỊT HEO) đổi khẩu vị thơm ngon ... 的評價
- 關於món an ngon, lạ miệng từ thịt lợn 在 MÓN ĂN NGON NGÀY TẾT lạ miệng chống ngán từ thịt heo 的評價
món an ngon, lạ miệng từ thịt lợn 在 Phạm Dương Ngọc Vlog Facebook 的最佳解答
Dị nhân Điện Biên uống mỡ sôi như nước trà
Mùa A Tà dùng chiếc muôi nhôm múc canh, múc đầy muôi mỡ nóng, đưa lên miệng bình thản uống hết nhẵn. Mùa A Tà biểu diễn đi, biểu diễn lại, để tôi chụp được những tấm hình ưng ý nhất trong cảnh tranh tối tranh sáng. Chụp hình xong, tôi lại dùng máy quay phim, và Mùa A Tà lại biểu diễn từ đầu. Khi đã có đủ hình ảnh, video, thì chảo mỡ cũng đã cạn tận đáy!
"Con ma" uống mỡ sôi giữa chợ
Trong đời làm báo đi nhiều rừng rú của mình, tôi được tận mắt khối chuyện kỳ dị, chẳng hạn như: Hà hơi mà loại bỏ được chất kịch độc của nọc rắn trong người; dùng ống tre mà hút được đạn chì ẩn trong da thịt; rồi liếm, ngậm, cắn lưỡi dao, lưỡi cày nung đỏ; hay người Dao đỏ, Pà Thẻn ở Hà Giang nhảy tưng tưng trên than hồng, bốc than hồng nhai… Những chuyện ấy rồi cũng giải mã được bằng ánh sáng khoa học, rằng nó là một cơ chế, thủ thuật nào đó. Nhưng chuyện dùng muôi múc mỡ trong chảo đang sôi ùng ục, đang chín già đổ vào mồm nuốt chửng, thì đúng là, chỉ nghe thôi, đã thấy dờn dợn ở cuống họng, cảm giác nóng bỏng trong dạ dày. Chuyện này đúng là khó tin, nhưng anh Nguyễn Trọng Dũng, Phó Phòng Văn hóa huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên cứ khẳng định như đinh đóng cột, nên không thể không tin. Không chỉ anh Dũng, mà nhiều người dân ở cái thị trấn bé tí teo của huyện Điện Biên Đông, ai cũng kể về Mùa A Tà, ở bản Chung Xua, bởi hàng trăm người đã được chứng kiến Mùa A Tà múc bát mỡ sôi giữa chợ uống nhẩn nha như uống trà.
Chuyện là thế này: Đợt ấy, cuối năm, trời Điện Biên Đông lạnh lắm. Cũng phải cỡ chục năm rồi thì phải. Chợ phiên ngày cuối tuần đông đúc hơn thường lệ. Trai gái xuống chợ phiên gặp gỡ nhau, đồng bào mang sản vật xuống chợ bán. Trong số các nam thanh nữ tú xuống chợ, có Mùa A Tà, anh chàng người Mông, ở mãi bản Chung Xua xa xôi. Mùa A Tà dẫn bạn gái đến gian hàng bán bánh rán của bà hàng ăn từ dưới xuôi lên kinh doanh. Mùa A Tà đòi mua bánh rán, bà chủ bảo chờ một tí cho bánh chín hẳn, sẽ giòn và ngon hơn. Thế nhưng, không hiểu do thèm quá, hay muốn thể hiện, mà anh chàng Mùa A Tà dùng tay không thò luôn vào chảo mỡ rán bánh sôi xèo xèo, vớt lấy một cái bánh, cho lên miệng ăn ngon lành. Trước khi ăn miếng bánh nóng giãy, Tà còn mút lấy mút để mấy giọt mỡ nóng nhểu xuống từ cái bánh. Nhìn Tà thò tay vào chảo mỡ sôi vớt bánh, rồi ăn cái bánh nóng đó, bà chủ quán mắt tròn, mắt dẹt, rú lên kinh hãi. Bà kêu Mùa A Tà bị ma nhập, nên mới làm điều kỳ dị như vậy. Mấy người chứng kiến tưởng Tà bị ma ám, đòi đè ra gọi thầy cúng. Lại có người xách nước lạnh tính dội vào tay Tà, để hạn chế độ bỏng. Thế nhưng, Mua A Tà cười lớn, khẳng định không bị tâm thần, cũng không bị ma nhập. Thấy Tà tỉnh táo, nói chuyện vui vẻ, nên không ai nghĩ Tà bị ma ám, hay thần kinh nữa. Kiểm tra bàn tay của Mùa A Tà, thì cũng không thấy đỏ tấy - dấu hiệu của bị bỏng. Đang lúc mọi người còn chưa hết kinh ngạc, thì Mùa A Tà tuyên bố, có thể uống được cả mỡ sôi. Nghe Mùa A Tà tuyên bố như thế, mọi người lại thêm lần nữa mắt tròn, mắt dẹt. Chưa để mọi người thách đố, Mùa A Tà với chiếc muôi to tướng của bà chủ quán, múc đầy muôi mỡ trong chảo sôi, đưa ngay lên miệng, mút chùn chụt mấy hơn hết nhẵn. Mùa A Tà định vớt thêm muôi nữa, uống cho đã miệng, thì bà chủ hàng bánh rán ngăn lại, vì sợ anh chàng kinh dị này uống hết mỡ của bà. Một số người còn đòi Tà há miệng, lè lưỡi để kiểm tra, xem có bị sức nóng hàng trăm độ của mỡ sôi làm cho bợt đi không. Tuy nhiên, lưỡi, miệng, vòm họng của Mùa A Tà chẳng có gì thay đổi. Tà vẫn cười nói toe toét, vui vẻ, vì vừa được xơi muôi mỡ ngon lành. Tà được bà chủ quán bánh rán tặng thêm cho vài chiếc vì màn biểu diễn hay ho.
Sau buổi biểu diễn kinh dị ấy, thì lời đồn anh chàng người Mông tên Mùa A Tà ở bản Chung Xua, uống được mỡ sôi ầm ĩ cả thị trấn nhỏ. Quá nhiều người chứng kiến, nên không ai đặt nghi vấn gì nữa. Sau vụ đó, cũng có vài lần, Mùa A Tà được chính quyền mời xuống thị trấn biểu diễn cho đồng bào xem trong các lễ hội văn hóa truyền thống. Không chỉ Mùa A Tà, mà còn có cả người cháu của anh, là Mùa A Só, cũng thi thoảng xuống trung tâm huyện và biểu diễn tiết mục uống mỡ sôi, khiến nhiều người dựng tóc gáy. Nhưng rồi, đột nhiên, không ai thấy Mùa A Tà và Mùa A Só đâu cả. Nhiều người đồn rằng, cả hai chú cháu đều đã chết bất đắc kỳ tử trong một lần uống mỡ sôi. Có người thì bảo cả hai đã bị mỡ nóng làm thủng ruột. Người thì bảo bị phỏng ruột, dẫn đến thối ruột mà chết. Có người lại tin rằng hai chú cháu Tà và Só bị con ma nhập vào người mới uống được mỡ sôi và chính con ma đã vật chết cả hai người… Người ta cứ đồn vậy, còn thực hư chết thế nào, thì không ai rõ, vì bản Chung Xua xa quá, tít tận núi cao, chẳng ai rỗi rãi mò lên đó mà tìm hiểu hư thực. Thế nhưng, để làm rõ câu chuyện đồn đoán về khả năng đặc dị này, tôi đã tìm đường lên bản Chung Xua.
"Dị nhân" uống mỡ sôi
Trung tâm xã Keo Lôm của huyện Điện Biên Đông nằm ngay bên huyện lộ, nhưng đường vào bản Chung Xua thì đúng là đường lên giời. Đồng chí cán bộ tư pháp xã Keo Lôm bảo rằng, ngay bản thân đồng chí cũng ít khi vào bản, vì đường sá kinh khủng quá, cứ dốc ngược như đường lên giời. Trời nắng thì đi được, chứ trời mưa chỉ có nước cuốc bộ cả chục cây số. Điện lưới cũng chỉ mới được mắc vào bản. Chung Xua toàn người Mông, ít chịu học hành. Trai gái 12, 13 tuổi đã yêu đương, qua tuổi trăng rằm là thành vợ, thành chồng, con cái nheo nhóc. Loanh quanh mãi ở xã, tôi mới thuê được Mùa A Tinh làm xe ôm chở vào bản Chung Xua. Mùa A Tinh bảo, chẳng mấy ai dám vào Chung Xua, vì nhỡ gặp mưa, thì không tha nổi xe ra, chỉ có nước để xe trong đó mà cuốc bộ về. Nhưng người ngoài còn sợ Chung Xua hơn cả mưa, là vì bản ấy có nhiều người nghiện, có không ít kẻ buôn ma túy. Riêng Mùa A Tinh thì không sợ, vì quê vợ Tinh ở Chung Xua. Hỏi chuyện trai gái Chung Xua yêu đương sớm, Tinh xác nhận là thật. Mùa A Tinh kể rằng, 15 tuổi, cậu đã yêu cô bé 12 tuổi ở Chung Xua. Yêu nhau 2 năm thì cưới. 15 tuổi, vợ đã sinh con đầu lòng, 16 tuổi thì sinh đứa thứ 2. Bây giờ, vợ chồng vẫn chưa đăng ký kết hôn được, bởi vợ Tinh chưa đủ tuổi.
Hỏi chuyện về Mùa A Tà và Mùa A Só uống mỡ sôi, Tinh xác nhận có thật. Theo Tinh, dù chưa được xem tận mắt, nhưng nghe cả xã kể. Bản thân Tinh chưa gặp hai nhân vật nổi tiếng lẫy lừng này, nhưng nghe đồn cả hai cùng chết từ mấy năm trước rồi (?!). Anh chủ cửa hàng tạp hóa ở trung tâm xã cũng nhất mực khẳng định hai cậu cháu đã thối ruột chết vì uống mỡ sôi, nhưng tôi và A Tinh cứ thử đi vào Chung Xua tìm hiểu thực hư cho ra nhẽ. Ngoài hành trang, tôi mang theo 1kg thịt cả nạc lẫn mỡ, rồi mới lên đường. Đường sá quả thực kinh khủng, nhưng Mùa A Tinh cũng đưa được tôi vào đến trung tâm bản. Gặp người dân ở đầu bản, thì họ khẳng định Mùa A Tà còn sống, vẫn ở bản. Mùa A Só còn sống hay đã chết thì không ai biết, vì mấy năm rồi không thấy Só đâu. Bỗng nhiên Só mất tăm mất tích khỏi địa bàn.
Lần mò vào ngôi nhà lúp xúp, tối om ở cuối bản, thì thấy một cụ bà ló đầu ra. Cụ không biết nói tiếng phổ thông. Mùa A Tinh phiên dịch mới biết rằng con trai cụ cùng vợ lên nương, chỉ lát nữa là về. Tôi ngồi đợi, mà thấy cụ cứ thấp tha thấp thỏm, nhìn tôi với ánh mắt len lén. Lát sau thì vợ Mùa A Tinh vác cuốc về. Nhìn mặt chị, thấy tái nhợt, tay chân run lẩy bẩy. Mùa A Tinh giao tiếp một tràng tiếng Mông, rồi giải thích với tôi rằng, mẹ và vợ Mùa A Tinh tưởng là công an đến bắt vì tội buôn bán ma túy! A Tinh phải giải thích mãi, hai người phụ nữ mới giãn cơ mặt, thoải mái tiếp chuyện. Hóa ra, ở bản Chung Xua, vô số thanh niên, đàn ông dính vào nghiện ngập, buôn bán ma túy, thậm chí sang cả Lào xách ma túy thuê, vào tù rất nhiều, nên vợ và mẹ Mùa A Tà cũng nghĩ Tà dính vào con đường đó, nên mới có "công an" đến tìm.
Nhập nhoạng tối, thì Mùa A Tà về. Mùa A Tà to cao, khuôn mặt sáng láng, hay chuyện, hoạt ngôn. Biết tôi là nhà báo, A Tà vui vẻ, thoải mái. Hỏi chuyện, vì sao người dân đồn đại Tà và Só đã chết, thì Tà rất bức xúc. Theo lời Tà, anh cũng không rõ lời lời đồn ấy xuất phát từ đâu, nhưng đúng là có thật. Mỗi lần rời bản, xuống trung tâm xã, hoặc ra huyện, ai nhìn thấy cũng kéo lại hỏi: "Tao tưởng mày đã chết rồi cơ mà? Sao người ta bảo mày uống mỡ sôi nên thối ruột mà chết?". Ai gặp Tà rồi, thì tin Tà còn sống, còn chưa gặp thì vẫn nghĩ anh đã chết. Riêng Mùa A Só, cháu của anh, thì mất tăm mất tích mấy năm nay, nên mọi người đều tin Só đã chết. Theo lời Tà, thì Só đã bỏ vợ và hai đứa con nhỏ, phiêu bạt sang Lào mấy năm nay không về. Bản thân anh cũng không biết Só còn sống hay đã chết.
Hỏi chuyện uống mỡ sôi, Mùa A Tà xác nhận là có khả năng đó thật và anh vẫn uống hàng ngày. Mùa A Tà sinh năm 1978, năm nay đã 37 tuổi, và có kinh nghiệm uống mỡ sôi đã 20 năm. "Đến giờ, mình cũng không giải thích được vì sao mình uống được mỡ sôi. Mình cũng đã hỏi một số người hiểu biết, và họ khẳng định khi mỡ sôi, thì nhiệt độ rất nóng, lên đến 200 độ C. Thế nhưng, mình uống mỡ sôi chỉ thấy hơi nóng, như uống nước chè vậy thôi. Do cơ thể mình đặc biệt, cũng có khi là do mình tập luyện nữa đấy" - Mùa A Tà bắt đầu câu chuyện.
Theo Mùa A Tà, hồi thanh niên, khoảng 17, 18 tuổi, Tà đi chơi với một người bạn ở xã Mường Luân, cách nhà đến 30 cây số. Hôm đó, Tà theo bạn vào một gia đình đang cúng ma. Đứa bé bị ốm, người ta tin rằng bị ma nhập, thầy bói cũng phán thế, nên phải mời thầy cúng đến bắt ma. Ông thầy cúng đó là người ở xã Mường Luân, là dân tộc Lào. Sau khi cúng bái rất lâu, thì ông chợt rút kiếm múa may, chém loạn xạ vào không trung trước mặt cháu bé nằm ốm thở thoi thóp. Múa kiếm một hồi, ông ta xông vào bếp lấy lưỡi dao nung đỏ giương lên trước mặt, rồi thè lưỡi liếm, phát ra tiếng cháy xèo xèo. Liếm dao nung đỏ một hồi, đến khi lưỡi dao hết màu đỏ rực, ông lại dúi vào bếp, rồi cầm chiếc chảo mỡ đã đun từ lâu, nóng khủng khiếp, rót ra bát sứ. Bê chiếc bát sứ đến gần cháu bé, ông đưa bát lên miệng, mút mỡ chùn chụt vào trong miệng. Chỉ uống hai hơi, hết sạch bát mỡ nóng. Nhìn cảnh ấy, Mùa A Tà và tất cả mọi người chứng kiến đều hãi hùng, dựng hết tóc gáy, nổi hết da gà. Người dân ở đây tin rằng, đó là lúc con ma xó, loại ma mà thầy cúng nuôi trong nhà, đã nhập vào ông thầy cúng và ông thầy cúng có khả năng đặc dị, có thể liếm, cắn lưỡi dao nung đỏ, uống mỡ sôi như uống nước chè. Hành động liễm lưỡi dao nung đỏ, uống mỡ sôi là để dọa con ma trong người đứa bé, để nó sợ mà bỏ đi. Cách chữa bệnh ấy thật quái dị, kỳ quặc, nhưng hiện vẫn phổ biến ở vùng Điện Biên Đông. Có bệnh, người ta không đi bệnh xá, mà nhờ thầy cúng đến… đuổi ma.
Sau buổi xem ông thầy cúng uống mỡ sôi, Mùa A Tà cứ bị ám ảnh. Nhiều đêm, nằm ngủ, A Tà vắt tay lên trái suy nghĩ về hiện tượng lạ lùng, quái dị đó. Nước sôi có 100 độ C, mà khi rót ra bát, còn phải thổi lấy thổi để mới uống nhâm nhấp được, mà ông thầy cúng gầy gò kia uống cả mỡ sôi, thì đúng là quái dị, miệng và họng chắc phải bằng thép! Mùa A Tà rán mỡ nhiều lần, thấy mỡ nóng bắn tí ti vào người, đã thấy bỏng rát, thì uống mỡ sôi đúng là chuyện khó tin. Nhưng, cái tính tò mò, hay khám phá, bản chất liều mạng, đã khiến Mùa A Tà thử nghiệm xem mỡ nóng thế nào.
Hôm đó, sắp Tết, nhà mổ con lợn béo nặng hơn tạ. Con nhiều mỡ, nên mẹ sai Mùa A Tà rán mỡ để dành. A Tà thái lưng rổ mỡ, rán một lúc thì mỡ sôi ngập nồi gang to. Những miếng thịt to bằng cổ tay, thả vào nồi, giờ tóp teo lại bằng ngón tay út. Nhìn nồi mỡ, Tà lại nghĩ đến cảnh ông thầy cúng người Lào uống cả bát mỡ sôi không hề hấn gì. Mùa A Tà lấy thìa nhôm, múc ít nước, té vào nồi mỡ. Lập tức, nước và mỡ bắn tứ tung ra ngoài. Điều đó có nghĩa, nước mỡ đã nóng già. Thế nhưng, như có ma quỷ xui khiến, Mùa A Tà liền lấy thìa múc mỡ, rồi đưa lên miệng uống. Uống một chút, mà môi miệng bỏng rát, nên Tà đổ chỗ thừa đi. Tà chợt nghĩ: "Sao mỡ nóng thế này mà ông thầy cúng kia lại uống được nhỉ?". Tà lấy gương soi miệng, thè lưỡi ra xem, thì không thấy phồng rộp hay dấu hiệu của bỏng. Thế là Mùa A Tà lại lấy thìa múc vài giọt uống. Cứ thế, suốt 2 ngày trời, Mùa A Tà không lên nương, không gặp bạn bè, mà cứ lúi húi ở bếp đun mỡ và tập uống. Sang ngày thứ 3, Mùa A Tà đã uống hết được một thìa mỡ sôi già, mà không thấy bỏng gì cả. "Lúc đầu mình chỉ uống bằng thìa nhỏ thôi. Sau thì mình dùng muôi để uống. Luyện khoảng 1 tháng sau, thì mình lấy bát uống y như ông thầy cúng người Lào nọ. Mặc dù mỡ sôi như vậy, nhưng mình chỉ thấy hơi nóng một chút thôi, chứ không bỏng đâu. Hồi ấy, mình tập luyện nhiều quá, mà uống hết cả nồi mỡ, hết cả con lợn, thế là bị bố mẹ mắng cho một trận. Mình uống bao nhiêu mỡ sôi cũng được, không bị bỏng, nhưng uống nhiều quá thì bị đi ngoài, bụng ậm ạch lắm. Giờ thì nghiện mỡ sôi rồi, lâu lâu không uống thì thèm lắm. Nhà mình chẳng bao giờ tích trữ được mỡ, vì có mỡ ở trong nhà, mình lên cơn nghiện, là đun sôi rồi uống hết. Nhiều khi, vợ sai đun mỡ để rán trứng, nhưng nhìn thấy mỡ sôi, thèm quá, mình múc uống sạch, lại bị vợ mắng. Mỡ càng nóng, càng bấy béo ngậy!" - Mùa A Tà kể chuyện.
Theo lời Mùa A Tà, thì ngoài việc luyện được khả năng uống mỡ sôi, thì bàn tay anh cũng đã miễn nhiễm với nhiệt từ chảo mỡ. Nhiều khi rán, xào món gì, anh không cần dùng đũa, mà dùng tay để đảo. Anh có thể thò cả mấy ngón tay, thậm chí bàn tay vào chảo ngập mỡ đang nóng già để vớt miếng đậu phụ, miếng gà rán lên và ăn ngon lành. Thậm chí, anh rang cơm, xào rau bằng các ngón tay. Anh dùng các ngón tay để đảo món ăn thay cho đũa, muôi. Luyện được hai khả năng đó, thì anh dạy cho người cháu, là Mùa A Só. Cậu cháu Mùa A Só có số phận khá buồn. Bố mất sớm, mẹ bỏ đi lấy chồng ở nơi khác, nên Só lớn lên dặt dẹo ở bản với ông bà. Đến tuổi đi học, không có ai nuôi dưỡng, nên chính quyền gửi vào Trung tâm bảo trợ xã hội của tỉnh Lai Châu cũ. Đến tuổi trưởng thành, về bản sống, lấy vợ, sinh con. Mùa A Só được cậu là Mùa A Tà dạy uống mỡ nóng, nhúng tay vào chảo mỡ sôi. Thế là, hai cậu cháu nổi tiếng rần rần cả huyện.
Khi câu chuyện đang dang dở, thì vợ Mùa A Tà bảo rằng, chảo mỡ lợn đã rán xong, tóp mỡ đã teo lại, ngả sang màu vàng óng và đã sắp cháy vì nóng già rồi. Cũng may mà hôm đó tôi mua 1 kg thịt nửa nạc, nửa mỡ đem vào, chứ không biết tìm đâu ra mỡ để Mùa A Tà biểu diễn. Để khẳng định mỡ đã sôi già, Mùa A Tà dúi thêm củi, cho lửa cháy to. Mùa A Tà thả mấy đầu ngón tay vào chảo mỡ đang nóng, khiến chảo mỡ réo lên như thể rán mấy ngón tay của Tà. Tà thản nhiên dùng ngón tay nhặt tóp mỡ trong chảo đưa vào miệng nhai ngon lành. Nhìn cảnh ấy, tôi thực sự rùng mình. Thật khó có thể tưởng tượng, ngón tay bằng da bằng thịt lại khuấy trong chảo mỡ nóng già như thế. Nhưng, màn kinh dị trong cảnh đêm tối nhập nhoạng đã diễn ra, khiến tôi và Mùa A Tinh sởn gai ốc: Mùa A Tà dùng chiếc muôi nhôm múc canh, múc đầy muôi mỡ nóng, đưa lên miệng bình thản uống hết nhẵn. Mùa A Tà biểu diễn đi, biểu diễn lại, để tôi chụp được tấm hình ưng ý nhất trong cảnh tranh tối tranh sáng. Chụp hình xong, tôi lại dùng máy quay phim, và Mùa A Tà lại biểu diễn từ đầu. Khi đã có đủ hình ảnh, video, thì chảo mỡ cũng đã cạn tận đáy!
món an ngon, lạ miệng từ thịt lợn 在 Phạm Dương Ngọc Vlog Facebook 的最讚貼文
RÙNG RỢN CHUYỆN CÔ GÁI BỊ SÉT ĐÁNH “BÁO OÁN” CẢ CHỤC NGƯỜI
Ở TP. Điện Biên Phủ (tỉnh Điện Biên), dù câu chuyện trôi qua đã lâu, nhưng lớp người lớn tuổi đều biết đến một câu chuyện kinh dị, đó là chuyện nữ y tá đã báo oán khiến hàng loạt quan chức vào tù, những kẻ đào trộm mộ cô không chết chóc vì bệnh tật, thì cũng tan hoang cửa nhà. Chuyện ấy đến nay vẫn đồn đại ầm ĩ, và mỗi người kể một kiểu. Người thì bảo, đại gia Trần Hùng Sơn, đã lấy xương cô gái xấu số thả vào nồi cao hổ, để bồi bổ sức khỏe, người thì bảo gã dùng xương bàn tay của cô đề làm bùa, luyện phép biến hình, biển thủ công quỹ dễ dàng, người thì bảo gã bán sang Lào cho các pháp sư với giá cao, để có tiền chạy lên chức giám đốc… Câu chuyện ấy hư hư, thực thực, không rõ thế nào, nhưng có một sự thực, là Trần Hùng Sơn, kẻ đứng sau vụ trộm xương cô gái xấu số, đã phải trả giá và những người tham gia quật mộ cũng khốn đốn không kém, khi hầu hết đều chết thảm. PV đã tìm về TP. Điện Biên, để giải mã thực hư câu chuyện bí ẩn này.
Bí ẩn pháp sư và xương người bị sét đánh
Dân gian khắp nơi vẫn đồn thổi những chuyện ly kỳ về những bộ xương bị sét đánh. Người ta đồn rằng, bọn trộm chuyên nghiệp rất ao ước có được bàn tay người bị sét đánh. Chúng tin rằng, khi đi ăn trộm, mang theo bàn tay của người bị sét đánh, thì chúng sẽ trở nên vô hình, không ai nhìn thấy được và cứ thế vô tư ra vào nhà đối tượng như chỗ không người. Chẳng biết việc cầm xương bàn tay người bị sét đánh có giúp tên trộm có khả năng đó không, nhưng lời đồn đó ở vùng đất nào cũng có. Tuy nhiên, những người không tin vào dị đoan, thì giải thích rằng, chính bàn tay của người bị sét đánh có một năng lượng nào đó, mà khiến chủ nhà ngủ say, nên bọn trộm cứ thế mà tung hoành, vơ vét của cải.
Những người nghiên cứu về mật tông, thì giải thích rằng, các pháp sư người Lào, Thái Lan sử dụng xương người bị sét đánh để luyện bùa. Những người bị sét đánh, nếu chết, thì đều là chết bất đắc kỳ tử, chết oan ức, nên linh hồn của họ không siêu thoát được, mà cứ luẩn quẩn ở nhân gian. Các pháp sư cao tay là những người giỏi dùng thuật để sai khiến các oan hồn, bắt oan hồn làm nô lệ, tay sai cho họ. Oan hồn bị sét đánh cứ quẩn quanh ở bộ xương, nên các pháp sư dùng bộ xương bị sét đánh đó để giam hãm các oan hồn, và sai khiến oan hồn làm việc cho họ những khi họ cần. Người ta đồn rằng, năng lượng từ bộ xương bị sét đánh, cộng với khả năng thần thông của oan hồn người chết, có thể làm được những việc nhỏ như chữa bệnh, truyền năng lượng cho người yếu, đến bắt ma cho các bệnh nhân tâm thần, thậm chí là làm cho người khác phát điên, hoặc chết bất đắc kỳ tử. Thế nên, pháp sư nào sở hữu một bộ xương bị sét đánh, thì chẳng khác gì sở hữu một kho báu, hay một lưỡi tầm sét, không chỉ nâng cao vị thế, uy tín trong giới pháp sư, mà còn có thể kiếm tiền như nước. Vì lẽ đó, giới pháp sư sẽ bỏ ra rất nhiều tiền để sưu tập cho được những bộ xương bị sét đánh. Càng sở hữu được nhiều bộ xương, sai khiến được nhiều oan hồn, thì năng lực của họ càng mạnh. Hồi tìm hiểu về thuật Thiên Linh Cái ở vùng Thất Sơn, tôi còn nghe kể rằng, các pháp sư ở núi Tà Lơn, bên Campuchia, đều sở hữu những mảnh xương người bị sét đánh. Khi có bộ xương tích điện thiên lôi, họ mang trong người, thì có khả năng biến hình (thoắt ẩn thoắt hiện như Tôn Ngộ Không), khinh công (lướt đi như gió), đặc biệt là thân thể sẽ thành mình đồng da sắt, đạn bắn không thủng, cung nỏ bắn vào chỉ bật ra (?!).
Ở Điện Biên, trong những ngày tìm hiểu về vụ đào mồ cuốc mả kinh dị này, thì tôi được nghe mấy bợm nhậu kháo nhau chuyện dùng xương người bị sét đánh để… nấu cao. Vùng Sơn La, Điện Biên vốn nhiều hổ, lại giáp nước Lào, là thủ phủ của hổ, hiện chúa sơn lâm vẫn hàng ngày từ Lào tuồn về hai tỉnh này để chui vào nồi cao, nên chuyện đồn đại quanh nồi cao cũng lắm ly kỳ. Giới mê cao hổ đồn rằng, bộ xương hổ mà thiếu xương bánh chè, thì nồi cao bỏ đi. Dù chẳng có căn cứ khoa học nào, nhưng người ta cứ đồn vậy, và khi bộ xương hổ bày ra, người ta quan tâm đầu tiên đến mẩu xương bánh chè nhỏ xíu. Tuy nhiên, không chỉ có thế, ở Điện Biên và Sơn La, giới sành cao hổ thường rỉ tai nhau rằng, nếu kiếm được một mẩu xương người bị sét đánh, thả vào nồi cao hổ, thì nồi cao hổ ấy giá trị không khác gì vàng. Nồi cao hổ có mẩu xương người bị sét đánh, sẽ tăng năng lượng cho nồi cao, khiến những người đau nhức xương cốt ăn vào khỏi bệnh nhanh chóng. Tuy nhiên, tất cả chỉ là lời đồn thổi vô căn cứ của những kẻ nấu cao, nhằm thêm phần huyễn hoặc cho những nồi cao hổ của chúng.
Cũng chính vì những lời đồn thổi vô căn cứ về tà thuật của xương người bị sét đánh, mà ở ba nước Đông Dương và Thái Lan, hễ có người bị sét đánh, là người thân đào sâu chôn chặt, rồi đổ bê tông phủ kín quan tài, để bọn trộm không đào phá được mộ. Nhiều gia đình còn cẩn thận kéo điện ra mộ trông ngày, trông đêm. Thậm chí, có gia đình chôn luôn người thân trong vườn nhà, để tiện bề trông nom trước sự thèm thuồng của bọn trộm. Thế nhưng, ở Điện Biên, cô y tá chết thảm do sét đánh, không có người thân bên cạnh, lại chôn ở nghĩa địa hoang vắng, thì chẳng khác gì làm mồi cho bọn trộm.
Diện kiến người đào mộ
Dò hỏi loanh quanh mãi, rồi tôi cũng tìm thấy nghĩa địa Noong Bua, nằm ở rìa TP. Điện Biên Phủ. Nghĩa địa nằm sau khu dân cư, trên một quả đồi rậm rịt cây cỏ. Những ngôi mộ lúp xúp, xanh đỏ lẫn trong đám cỏ dại, cây cối. Nhiều ngôi mộ xây to, nhưng không có sự chăm sóc của con người, nên dây leo quây kín. Một cảm giác lành lạnh, rờn rợn khi bước chân vào nghĩa địa này, dù nó chỉ nằm ngay sau khi dân cư. Dường như, nơi đây, người sống ít chăm bẵm cho người chết, nên mồ mả đều hoang lạnh. Gió thổi vào những bụi bương, khiến thân bương chạm vào nhau phát ra tiếng kêu "cót két" rợn cả người. Đang lang thang ở rìa nghĩa địa, thì một người đàn ông trung tuổi đi tới. Tôi kéo lại hỏi về vụ áo đào trộm mộ cô gái bị sét đánh, thì ông dắt tôi đến một doi đất như cái hủm bên một bụi bương khổng lồ và bảo rằng, đó chính là nơi chôn cất cô Vũ Thị Lê, cô gái xấu số bị sét đánh chết, rồi bị nhóm người liều mạng đào mồ trộm xương. Người dân quanh vùng đều biết đến chuyện đó, vì nó quá nổi tiếng, quá ầm ĩ suốt một thời gian dài. Kể lể một hồi, rồi ông chỉ tôi đến nhà ông Đoàn Văn Diệp, ở phường Noong Bua, cách nghĩa địa chừng 500 mét. Ông dặn đi dặn lại tôi rằng, không được tiết lộ ông là người chỉ đường đến nhà ông Diệp.
Hỏi han lòng vòng, thì tôi cũng tìm được nhà ông Đoàn Văn Diệp trên một quả đồi nhỏ đông dân cư nhưng cây cối rậm rạp, tối tăm. Đại gia đình nhà ông Diệp tụ tập sống trong mấy ngôi nhà tềnh toàng, lúp xúp bằng gỗ, đã lên màu đen bóng. Chiếc cổng sắt thấp tè, hoen rỉ như thể cho có nửa đóng nửa mở. Thấy tôi, người phụ nữ béo lùn, khuôn mặt không thiện cảm lắm, cứ chằm chằm nhìn tôi, rồi tiến lại hỏi tìm ai. Khi tôi giới thiệu là nhà báo, thì bà tỏ ra khó chịu, tìm mọi cách xua đuổi. Miệng bà cứ vừa xua đuổi, nhưng lại tiên tục kể lể, kêu than: "Tôi sợ lắm rồi, tha cho tôi đi. Vì chuyện của ông ấy, mà gia đình tôi khốn khổ, tôi cũng khốn khổ. Tôi chỉ muốn mọi thứ được ngủ yên thôi, mà nào có được yên đâu. Cứ thi thoảng cô ấy (cô Lê - người bị ông Diệp quật mộ) lại hiện về dọa nạt, khiến tôi hú vía".
Nghe vợ ông Diệp nói vài câu, cũng đủ biết người đàn bà này mê tín dị đoan, tin vào những chuyện tâm linh huyễn hoặc. Bà kể liên tục những chuyện không đầu không cuối về ma quỷ ám gia đình bà suốt 30 năm qua. Theo lời bà, hồi chồng bà đào mộ cô Lê, bà hoàn toàn không biết, thế nhưng, những sự lạ liên tiếp xảy đến với bà. Lần đầu tiên, sau hôm ông Diệp tham gia quật mộ vài ngày, khi bà đang nằm trên võng ngủ ở gốc cây hồng xiêm, vừa thiêm thiếp, thì bà thấy rõ người phụ nữ trẻ không mặt quần áo gì cả, người cháy đen, chân và tay gác vào cành cây, người như cái võng đưa đẩy thõng thẹo trước mặt mà. Bà cố kêu lên, nhưng không sao kêu được, cố cựa mình không không sao cựa nổi. Phải một lúc sau, bà mới hét lên được, rồi lăn xuống đất, thì người phụ nữ ấy biến mất. Hoảng hồn quá, bà gọi ông Diệp ra kể, thì ông Diệp mới hết hồn, nghĩ đến chuyện đào mồ cuốc mả, lấy trộm bộ xương của cô gái mấy hôm trước. Bị bà vợ truy vấn, ông Diệp mới kể lại chuyện ấy. Hãi hùng quá, bà cùng chồng làm nhiều lễ cúng linh đình, thậm chí ra tận khu đất có mộ cô gái xấu số để cúng bái, làm lễ siêu thoát cho cô gái ghê lắm.
Thế nhưng, theo lời bà vợ ông Diệp, thì oan hồn của cô gái xấu số đó cứ ám lấy cuộc sống của bà cho mãi đến bây giờ. Chuyện kinh dị nhất là vụ mấy năm trước, sau khi mơ thấy người phụ nữ lạ mặt đến nhà, thì hôm sau bà phát hiện có con rắn to tướng ở trong nhà mình. Bất kỳ con vật nào lạc vào nhà bà, từ con bướm, con chim, đến con rắn, bà đều nghĩ đó là oan hồn cô Lê tìm đến, nên bà đều không dám giết hại. Nhưng chim chóc trong nhà còn được, chứ con rắn to bằng cổ tay ở trong nhà thì nguy hiểm quá, nhỡ nó đớp cho cái thì toi mạng. Nghĩ thế, bà thắp hương, lầm rầm khấn vái, xin "cô Lê" tha mạng, không biến thành rắn để hành gia đình nữa. Khấn xong, bà lấy cây gậy đuổi rắn. Thế nhưng, con rắn cứ ngỏng đầu nhìn bà chằm chặp, không chịu đi. Hai mắt nó vằn đỏ. Bà đặt cây gậy cạnh nó, tức thì con rắn bò lên cây gậy, rồi quấn chặt. Bà đem cây gậy ấy ra nghĩa địa Noong Bua, cách nhà đến 500 mét rồi thả cả gậy lẫn rắn ở đó. Ấy thế nhưng, bà hãi hùng dựng ngược, khi vừa về đến nhà, thì đã lại thấy con rắn ở nhà bà. Tin chắc đó là "cô Lê", lại thấy con rắn cũng hiền lành, nên bà không xua đuổi nữa. Bà đặt cây gậy cho con rắn bám vào, rồi chọc gậy lên cửa sổ. Con rắn bò lên chấn song, rồi quấn thân yên vị ở đấy suốt mấy ngày. Ngày nào, bà cũng ra quan sát rắn, rồi nói chuyện với nó, như thể nói chuyện với "cô Lê". Suốt mấy ngày, bà cúng khấn chu đáo. Vài hôm, thì con rắn biến mất, không thấy quay lại nữa.
Lại có lần, sự xuất hiện của con rùa lạ, cũng khiến cả nhà bà một phen náo loạn. Hôm ấy, cả Tây Bắc mưa to gió lớn, nhiều nơi ngập lụt. Bà vợ ông Diệp dậy sớm nấu nướng, thì thấy con rùa lạ, to bằng miệng bát con nằm ở thềm nhà, chính giữa cửa ra vào. Nếu con rùa lạc vào nhà khác, có khi biến thành món rùa rang muối, nhưng vào nhà bà, thì bà nhất nhất tin đó là "cô Lê". Bà cúng khấn, nói chuyện với "cô Lê" một hồi, rồi đem "cô" thả ở một cái đìa cách nhà mấy trăm mét. Lại điều kinh dị xảy ra, là bà thả buổi sáng, thì buổi chiều lại thấy đúng con rùa đó nằm trước hiên nhà bà. Tin đó là "cô Lê" hóa thành, nên bà không xua đuổi con rùa nữa, mà mặc kệ nó ở trong nhà. Đến bữa, bà lấy rau cỏ, bắt dế, cá, tôm cho rùa ăn. Hàng ngày, bà cúng khấn cầu siêu cho oan hồn cô Lê. Vài ngày sau, thì con rùa biến đâu mất…
Sau khi kể chán chê chuyện ma mị liên quan đến gia đình bà, thì bà mới thở dài bảo: "Ông nhà tôi cũng chỉ là phận làm thuê, chuyên nghề bốc mộ, chứ có định trộm xương cốt ai đâu, mà phải gánh chịu điều tiếng ghê thế chứ? Người ta đồn ông nhà tôi được nhiều vàng bạc, đô la lắm, nên mới đi trộm mộ…". Nắm được chuyện người phụ nữ này than thở, tôi liền bảo: "Chính vì không ai hiểu rõ, nên người ta cứ đồn thổi này nọ. Bác cứ để ông Diệp chia sẻ rõ ràng, để mọi người hiểu chuyện, thì người ta cũng thôi đồn thổi, mà bác Diệp cũng được nhẹ lòng". Nghe tôi nói vậy, người đàn bà này mới giãn khuôn mặt cau có và cho tôi số điện thoại để gọi ông Diệp.
Tôi giới thiệu là nhà báo, không ngờ ông Đoàn Văn Diệp lại vồn vã, hứng khởi đến vậy. Chỉ loáng cái, ông đã có mặt ở nhà. Ngày nào cũng vậy, cứ sáng bảnh mắt, ông Diệp đã dậy, dắt ông chú, là chồng của dì ruột vợ ông, đi dạo khắp phường Noong Bua. Bữa trưa, ông tranh thủ dắt chú về ăn trưa, rồi lại dắt nhau đi đến tối. Ông chú này đã 92 tuổi, rất khỏe, ăn tốt, ngủ tốt, nhưng lại bị bệnh teo não do chứng bệnh alzheimer, không nhớ được gì, phóng uế bừa bãi. Bà vợ cũng bị tai biến nằm liệt. Con cái đều là cán bộ, bận mải công tác, mà ông Diệp thì rỗi rãi, nên nhận chăm sóc chú. Ông Diệp bảo: "Đời tôi đã phạm sai lầm lớn, là tham gia quật mồ trộm mả của cô gái trẻ đáng thương, nên bị báo oán nhiều lắm. Phần cuối đời, tôi phải làm nhiều việc tốt, bất kể cho ai, để mong thanh thản anh ạ. Vợ tôi thì sợ nhà báo, nhà văn, chứ tôi thì không ngại gì mà chia sẻ. Tôi cũng chỉ là nạn nhân trong vụ đó mà thôi, chứ nếu tôi là chủ trò, thì giờ làm gì mà còn sống ngồi đây kể chuyện cho anh nữa. Tất cả những người tham gia đào mộ, đều đã bị quả báo, đã chết hết rồi. Ai không chết, thì gia cảnh cũng thảm lắm. Tôi bị nhẹ nhất, là cháy hết nhà cửa, nhưng mạng sống vẫn còn, và ơn giời, là con cái không bị ảnh hưởng gì, giờ đều là cán bộ hết rồi. Tôi sẽ kể với anh toàn bộ chuyện này, không giấu điều gì sất".
Câu chuyện của nhóm trộm mộ cô gái xấu số bị sét đánh, trong đêm tối giữa nghĩa địa hoang vắng không một bóng người, được ông Đoàn Văn Diệp kể lại, dù đã trôi qua gần 30 năm, nhưng vẫn khiến người nghe rùng mình sợ hãi.
Box: Năm 1987, Trần Hùng Sơn, một ông chủ quán phở ở Điện Biên, đã thuê một nhóm người đào trộm mộ cô Vũ Thị Lê, cô gái xấu số bị sét đánh chết. Không ai rõ Trần Hùng Sơn dùng bộ xương ấy làm gì, nhưng bỗng nhiên gã phất lên nhanh chóng. Quán phở của gã đông khách nườm nượp. Có tiền, gã lập công ty, rồi đút lót thế nào mà quen được toàn sếp lớn, nhận thi công nhiều dự án lớn ở tỉnh Lai Châu cũ. Tuy nhiên, sau đó, gã đã bị bắt vì tội tham ô, đút lót, biển thủ công quỹ và nhận án tù chung thân. Những người tham gia quật mộ trộm xương cũng gặp số phận bi đát.
(Còn nữa)
Bài sau: Cuộc quật mồ kinh dị cô gái bị sét đánh ở nghĩa địa hoang vắng
Phong Nguyệt
1. Nghĩa địa Noong Bua, nơi xảy ra vụ đào mộ trộm xương kinh dị gần 30 năm trước
2. Ông Đoàn Văn Diệp - người tham gia vụ đào mộ trộm xương
3. Sợ bọn trộm, người ta phải chôn sâu, đổ bê tông cho những ngôi mộ chôn người bị sét đánh
Bài 2: Cuộc quật mồ kinh dị cô gái bị sét đánh ở nghĩa địa hoang vắng ở Điện Biên Phủ
Ông Đoàn Văn Diệp (Phường Noong Bua, TP. Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên) từng đi bộ đội. Ra quân, ông về Điện Biên, làm công nhân tại Nông trường Điện Biên, rồi lập gia đình, sống luôn tại đất của nông trường. Nhà ông cách Bệnh viện Nhân dân không xa lắm. Biết ông là người bạo gan, nên cán bộ trong bệnh viện thường thuê ông chôn cất cho những tử thi chết vì nhiều nguyên do đặc biệt, mà không tìm được thân nhân, hoặc thân nhân không nhận. Người dân trong vùng cũng đào mộ chôn người chết ở sau bệnh viện, nên quả đồi biến thành nghĩa địa lớn, tên là nghĩa địa Hòa Bình, hoặc nghĩa địa Noong Bua. Lâu dần, ông Diệp coi đó là công việc kiếm thêm. Ông cũng làm luôn việc bốc mộ, sang cát cho nhân dân quanh vùng tại nghĩa địa sau bệnh viện này.
Một hôm, vào ngày giữa tháng âm lịch, đầu thu năm 1987, khi ông Diệp đang uống nước chè ở nhà hàng xóm, là ông Chu Minh Chiến, thì hai người, là Trần Văn Điền và Nguyễn Văn Tài, ở xã cạnh kéo đến bàn chuyện bí mật. Ông Điền tỏ vẻ bí ẩn: "Có vụ này, hai ông đi làm không? Chỉ mất nửa buổi thôi, mà được 500 ngàn đồng chia nhau". Thời điểm đó, nhà ông Diệp rất nghèo, con cái nheo nhóc, đói ăn, nên nghe thấy chuyện kiếm tiền, thì hào hứng lắm. Lúc ấy, 500 ngàn đồng giá trị bằng mấy tấn thóc, nên dù chia làm 4, thì cũng cứu đói cho cả nhà được cả năm. Ông Tài nhẩn nha kể câu chuyện kiếm tiền dễ dàng mà bí hiểm này.
Ngày đó, tại căng tin cạnh chợ trung tâm Điện Biên, có quán phở nhỏ, nhưng khá đông khách. Chủ quán phở là Trần Hùng Sơn, thường gọi là Sơn Xồm, trình độ hết lớp 4. Trước kia, Sơn Xồm làm nghề đồ tể, chuyên giết lợn cho vợ bán thịt ở chợ. Sau có vốn thì mở quán phở. Ông Tài và ông Điền vẫn làm thuê cho quán phở của Sơn Xồm trong lúc nông nhàn, rỗi rãi. Công việc chính của hai ông là giã giò. Trong lần giải lao, ngồi uống trà, hút thuốc lào, Sơn Xồm mới lôi chuyện xương người bị sét đánh ra nói chuyện. Gã kể nhiều chuyện thần bí về những bộ xương của người bị sét đánh, nào là làm bùa rất hiệu nghiệm, nào là lấy may trong việc làm ăn… Huyên thuyên chán chê những chuyện thần bí, thì gã mới bảo hai ông Tài và Điền rằng, thử đi tìm kiếm xem ở Lai Châu có ai bị sét đánh chết trong thời gian gần đây không. Nếu kiếm được, thì hắn sẽ trả hậu hĩ, bằng vài tháng giã giò thuê cho gã.
Nghe Sơn Xồm nói vậy, ông Tài và ông Điền mới lần mò đi dò hỏi. Trong lần trò chuyện, thì người đàn ông tên Chính kể rằng, mấy năm trước, có nghe bà Thanh Mai, là y tá ở một bệnh xá, kể rằng, có một cô gái bị sét đánh chết, lúc đưa vào Bệnh viện Nhân dân, thì đã chết còng queo rồi. Sét đánh cô gái cháy đen thui, nhìn rất thương tâm. Đi tìm hiểu kỹ, thì nhóm người này biết được đôi dòng về thân phận người con gái kia.
Chuyện xảy ra vào năm 1983. Đêm ấy mưa to gió lớn, cô y tá Vũ Thị Lê đang đạp xe ở trước sân bay Mường Thanh, thì bị sét đánh trúng. Luồng điện sáng lòa phóng xuống đất, kèm tiếng nổ long trời, đã đốt cô gái xinh đẹp đó thành than. Không biết người thân là ai, nên người dân đưa thi thể cô vào bệnh viện. Lục lại giấy tờ mang theo, người ta mới biết, cô Lê là người Tuyên Quang. Cô lên vùng đất tận cùng tây bắc học trường Trung cấp y tỉnh Lai Châu (khi đó chưa tách tỉnh thành Điện Biên và Lai Châu). Học xong, cô về công tác ở huyện Điện Biên, cách thành phố không xa. Người thân ở mãi Tuyên Quang, nhà lại nghèo, đường sá thời điểm đó vô cùng khó khăn, không có điều kiện đưa thi thể người con gái xấu số này về quê, nên đã chôn chị Lê ở nghĩa địa Hòa Bình, thuộc xã Noong Bua. Người thân cho đào mộ cô rất sâu, chôn chặt, rồi ở lại trông nom hơn 1 tháng trời. Người ta tin rằng, 1 tháng sau khi người bị sét đánh chết, thì năng lượng không còn tích tụ trong xương nữa, nên bộ xương vô giá trị. Chính vì thế, chỉ cần trông nom mộ khoảng 1 tháng từ khi người đó qua đời vì lưỡi tầm sét. Thế nhưng, chẳng ai có thể ngờ, nữ y tá này đã bị chôn 4 năm rồi, còn bị đám người đào mồ cuốc mả để trộm cốt.
Tưởng rằng buôn ma túy, hay vũ khí, chứ đào ngôi mộ, móc bộ xương lên, mà được những 500 ngàn đồng, bằng hàng tấn thóc, hoặc hai con lợn béo, thì là việc quá hời, nên sau khi ông Tài và Điền trình bày, thì ông Diệp và Chiến gật đầu ngay. Kế hoạch đào mộ được nhóm người này vẽ ra chi tiết, chọn ngày giờ đẹp để xâm nhập nghĩa địa và trộm xương cốt.
Như hẹn, đúng 9 giờ đêm, nhóm người này có mặt ở nghĩa địa Hòa Bình. Ông Điền còn vác theo một đống quần áo mưa, găng tay da, ủng. Bình thường, mấy ông chỉ dùng tay không, lội chân đất xuống huyệt mò xương, róc thịt người để cải táng, nên đều ngạc nhiên, vì được trang bị hiện đại. Theo ông Điền, thì Sơn Xồm đã mua những thứ đó trang bị cho mọi người. Sau khi bàn bạc, thì ông Tài được phân công cảnh giới từ chân đồi. Nếu có người vào nghĩa địa, thì ông Tài sẽ kêu tiếng tắc kè, và mọi người tắt đèn dầu, ẩn nấp.
Biết có thêm 2 người tham gia đào mộ, nên Trần Hùng Sơn đã đưa trước 20 ngàn đồng, cùng 1kg thịt ba chỉ, nửa nạc nửa mỡ. Nhóm người này đã chia nhau, mỗi người 5 ngàn đồng. Miếng thịt thì cắt làm 4, nhưng miếng to nhất chia cho ông Chiến, vì nhà nghèo, con đông, cả năm chẳng biết đến miếng thịt. Số tiền 5 ngàn đồng chia nhau, ông Diệp trích một phần mua hoa quả, nén hương, đem theo để làm lễ đàng hoàng. Ông Diệp bày hoa quả, thắp hương, rồi khấn vái: " Anh nhà nghèo, đông con đông cái, nên mới làm cái nghề đào mồ cuốc mả này. Thằng Sơn Xồm nó thuê anh, thì anh cứ biết đưa em lên, tắm rửa cho em. Còn nó mang em đi đâu, làm gì thì anh không biết, kệ nó thôi. Có gì, em thông cảm cho anh. Cũng vì nghèo đói mà làm liều em ạ. Em có vật, thì cứ tìm thằng Sơn Xồm ở chợ Điện Biên mà vật nó, vì nó mới là chủ mưu".
Nghịa địa nằm trên quả đồi đá sỏi gan trâu, mộ người con gái này lại chôn rất sâu, nên phải đào suốt 3 giờ đồng hồ, đến 12 giờ đêm, mới thấy quan tài. Bật nắp áo quan, thì thấy bên trong lõng bõng nước. Mùi hôi thối bốc lên nồng nặc, khiến ông Diệp phải nhảy lên, chờ cho mùi bay đi hết đã. Thế nhưng, ông Chu Minh Chiến thì chẳng sợ, cởi trần nhảy xuống lội nước, mò xương cốt cho vào chiếc túi vải mà ông Điền đã chuẩn bị từ trước. Cầm chiếc đèn dầu soi gần, mọi người thấy rõ những mẩu xương của cô Lê đều đen sì. Dòng điện cực mạnh của sét đã đốt cháy cả xương của cô, khiến xương chuyển thành màu đen, không giống xương cốt của người chết bình thường.
Vớt hết xương, ông Điệp và ông Chiến giao chiếc túi vải cho ông Điền. Ông Điền buộc vào gác ba ga xe đẹp, mang về nhà, rửa ráy xương cốt một lần nữa. Tối hôm sau, ông Điền mang đến cho Trần Hùng Sơn. Theo lời ông Điền, thì Sơn Xồm nhận cái túi vải đầy xương, nhưng không mở ra xem, mà bảo cứ vứt cạnh giếng nước, rồi bảo ông về luôn. Ông Điền hỏi chuyện tiền nong như đã hứa, thì gã bảo cứ về, để gã kiểm tra, xem xét, rồi thanh toán sau. Thế nhưng, suốt 3 ngày sau, không thấy Sơn Xồm đả động gì đến chuyện trả tiền công trộm mồ mả, nên cả nhóm 4 người cùng đạp xe đến quán phở, cũng là nhà Sơn Xồm. Đến nơi, gã tỏ ra khó chịu, và nói không thể thanh toán được, vì thiếu mất cái xương quan trọng nhất, đó là xương bánh chè. Gã còn đặt câu hỏi vu vơ, rằng lúc đem xương lên, mọi người có kiểm tra lại không, rồi thì ai là người trông nom, bảo quản bộ xương… Sau này, mọi người mới hiểu, gã đặt câu hỏi, tung tin để gây mâu thuẫn trong nhóm, rằng ai đó đã trộm mất xương bánh chè, nên bộ xương không còn nhiều giá trị nữa. Kiểu như bộ xương hổ, mà thiếu xương bánh chè, thì mất hết giá trị. Khi đó, mọi người chưa hiểu ý của hắn, nên ngay đêm hôm đó lại mò ra nghĩa địa, rồi thay nhau nhảy xuống mò mẫm trong quan tài lõng bõng nước tìm xương bánh chè. Tuy nhiên, bới móc mãi cũng không lấy thêm được đốt xương nào, mà chỉ lấy được chiếc gương và cái lược. Vì thông tin gã bảo thiếu xương bánh chè, nên mọi người bực lắm, vẫn không thể nghĩ ra cách nào đòi tiền của hắn. Thời điểm đó, Sơn Xồm cũng là tay giang hồ nửa nạc nửa mỡ, nên không ai dám động đến hắn. Việc làm của nhóm ông Diệp cũng sai trái, nên càng không dám làm to, bởi lộ ra, thì chết cả lũ. Nhóm ông Diệp đành phải nuốt nỗi bực vào bụng.
Đại gia trả giá, nhóm trộm mộ liêu xiêu
Sự việc rồi cũng trôi qua, ông Đoàn Văn Diệp mải lo miếng cơm, manh áo, nên cũng không quan tâm nhiều đến chuyện đòi nợ nữa. Nhưng, sau đó, rất nhiều thông tin cứ đến tai ông Diệp. Chẳng hiểu có liên quan gì không, nhưng sau vụ đào trộm xương cô Lê thời gian, thì Trần Hùng Sơn phất lên như diều gặp gió. Ngày đó, Điện Biên Phủ còn là tỉnh lỵ nghèo, nhà nào sang lắm thì có xe đạp Phượng Hoàng, chứ xe máy thì ngóng ra đường đỏ mắt mới thấy. Thế nhưng, gã chủ quán phở Sơn Xồm bỗng dưng có tới 2 cái xe máy Simson, suốt ngày đèo vợ con diễu phố, trước sự ngỡ ngàng của bà con khối phố. Không ai hiểu vì sao một gã bán phở, mà lại có nhiều tiền như thế. Trong nhóm đào mộ, cũng không ai biết rõ. Lúc thì mọi người đồn thổi rằng, hắn đã mang bộ xương sang Lào bán được một khoản tiền lớn, lúc thì bảo hắn dùng bộ xương làm bùa phép, ăn nên làm ra, mới phất nhanh như vậy. Cũng có tin đồn rằng, nhờ có xương người bị sét đánh, nên hắn buôn lậu trót lọt, mang thuốc phiện ở Lào về Việt Nam ung dung như chốn không người. Cứ đêm xuống, hắn chỉ việc để xương bàn tay, xem quay hướng nào, thì cứ hướng đó mà đi, thì dù gùi cả tải thuốc phiện, cũng chẳng có ai bắt.
Điều ông Điệp, cũng như hầu hết người dân Điện Biên Phủ đều ngỡ ngàng đến ngã ngửa, khi bỗng một ngày, vào thời điểm những năm đầu của thập kỷ 90 của thế kỷ trước, Trần Hùng Sơn, gã bán phở ở chợ Điện Biên, bỗng dưng thành giám đốc doanh nghiệp. Công việc làm ăn, kinh doanh của sơn Xồm cứ lên như diều gặp gió. Điều buồn cười, là thời điểm đó, báo chí, truyền hình tung hô Trần Hùng Sơn như một ông chủ doanh nghiệp tài ba, dám nghĩ, dám làm, biết làm. Vì nhanh chóng nổi như cồn, nên Trần Hùng Sơn và doanh nghiệp của gã đã được giao thực hiện một dự án lớn nhất từ trước đến nay ở vùng đất tận cùng Tổ quốc, đó là Dự án Mường Tè. Dự án này được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 9/11/1995 với tổng số vốn lên tới 432 tỷ đồng, một số tiền rất lớn thời đó. Dự án này không chỉ sẽ làm thay da đổi thịt vùng đất nghèo nhất nước, mà còn mang ý nghĩa xã hội, nhân văn tốt đẹp, thể hiện sự quan tâm của chính phủ với vùng đồng bào xa xôi, nghèo đói, đường sá đi lại khó khăn nhất nước. Hạng mục chủ yếu của dự án là phát triển đường giao thông vào tận nơi sâu, xa nhất của huyện Mường Tè, đến các cụ xã, các địa bàn dân cư trọng yếu ở vùng ngã ba biên giới.
Trần Hùng Sơn được giao nhiệm vụ giám đốc dự án đặc biệt quan trọng này.
Thế nhưng, dự án chưa thực hiện được là bao, Trần Hùng Sơn đã biển thủ hơn 50 tỷ đồng. Việc thì chưa làm, nhưng gã đã giở đủ các trò ma để rút tiền, như thanh toán trùng, khai man khối lượng, tăng giá vật tư, nghiệm thu khống, giả mạo hợp đồng. Mặc dù lực lượng công an theo dõi, điều tra, có thể tóm bất cứ lúc nào, song gã vẫn cứ ngông nghênh chẳng sợ. Gặp cơ quan điều tra, thậm chí giới báo chí, gã còn "nổ" thẳng rằng: "Tôi có được tiêu tiền một mình đâu, phải chia chứ. Đó là luật chơi. Muốn thành công, thì phải nhớ bài học nhập môn này"; rồi thì gã còn tuyên bố: "Thời buổi này, cứ có tiền trong tay thì làm gì chả được. Nếu được làm lại, tôi sẽ không làm giám đốc, mà làm cái to hơn giám đốc!"… Những tuyên bố của Sơn Xồm, một giám đốc ở vùng núi Tây Bắc khi đó, quả thực rất "hiện đại", và đến bây giờ nó vẫn là "kim chỉ nam" cho những kẻ đi lên bằng thói lươn lẹo.
Điều kinh ngạc, là dù tuyên bố khắp nơi rõ ràng như vậy, xác nhận luôn là làm ăn thì phải hối lộ, rồi đã nằm trong tầm ngắm của công an, nhưng Trần Hùng Sơn vẫn ung dung như chẳng hề có chuyện gì xảy ra với mình. Gã vẫn "nổ" khắp nơi, chả khác gì anh hùng nhất khoảnh, như thể không ai dám động vào. Thậm chí, thời điểm đó, gã còn lập một công ty dưới Hà Nội, lấy tên công ty là Hoa Ban, cho có mùi vị tây bắc. Gã mua nhà lầu ở nội thành, rồi ngang nhiên cưới cô vợ khác, bỏ mặc cô vợ cũ tên H. vốn đồng cam, cộng khổ với gã suốt thời khó nhọc, buôn bán thịt lợn ở chợ tỉnh lỵ Điện Biên Phủ. Phải nói rằng, thời điểm đó, nhiều quan chức sợ hãi, dè chừng hắn. Riêng nhóm đào trộm mộ cô gái Vũ Thị Lê bị sét đánh, chuyển xương cho Sơn Xồm, thì tin rằng, hắn có phép thần thông quảng đại. Ông Diệp còn tin rằng, một pháp sư ở Lào, đã sử dụng oan hồn của cô Lê như âm binh, trợ giúp gã tiến thân, làm ăn và không sợ bất cứ thế lực nào. Thậm chí, bất cứ ai dám động đến gã, pháp sư kia sẽ điều âm binh ám hại. Sơn Xồm đã tin tuyệt đối vào sự hộ mệnh của bộ xương sét đánh của cô gái xấu số.
Thế nhưng, trong thời gian gã cùng đàn em ngao du sang Mỹ chơi, gọi là đi thăm quan các trường đại học nổi tiếng thế giới để học hỏi kinh nghiệm về làm giàu cho quê hương, thì Công an tỉnh Lai Châu rảnh rang vào cuộc điều tra, thu thập hồ sơ, chứng cứ, mà không sợ bị hắn can thiệp, tìm cách bưng bít. Ngay khi hắn đón máy bay từ Mỹ về Nội Bài, thì lực lượng công an đã tóm gọn ngay trên máy bay. Lúc tra tay vào còng số 8, Sơn Xồm vẫn ung dung nghĩ rằng mình sẽ không thể bị bắt, rồi công an sẽ phải thả… Thế nhưng, lúc ra tòa, bị xử chung thân, gã mới cay đắng nhận ra rằng, lúc ăn nên làm ra thì lắm bạn bè, đệ tử, ô dù, nhưng lúc ngã ngựa, thì chẳng thấy ai, thậm chí, "âm binh" là "tấm bùa" xương người sét đánh cũng chẳng giúp được gã.
Điều thú vị trong vụ án tham nhũng Mường Tè, là khi đang trong quá trình điều tra, củng cố hồ sơ vụ án, công an phát hiện Trần Hùng Sơn mua nhà riêng ở Hà Nội, rồi có vợ mới, chị H., người vợ đầu ấp tay gối thuở nghèo hèn, đã tức giận viết đơn tố cáo Trần Hùng Sơn đã từng thuê một nhóm người đào mộ trộm xương nữ y tá bị sét đánh chết. Nhận đơn tố cáo của chị H., công an lập tức vào cuộc điều tra. Ông Đoàn Văn Diệp nhớ lại: "Chuyện đào mộ cô Lê trôi qua đã hơn 10 năm, nhưng không ngày nào chúng tôi ăn ngon ngủ yên. Đỉnh điểm của nỗi sợ hãi, như điềm quả báo, là công an đến nhà hỏi chuyện chúng tôi về vụ đào mộ cô Lê, đem xương bán cho Trần Hùng Sơn. Các anh công an cũng đến hỏi như nhà báo các anh, rồi chụp ảnh, ghi âm, chép biên bản. Họ hỏi gì, tôi khai tất, cũng kể y hệt như kể với các anh. Về sau, nghĩ lại, việc không đòi được tiền của Sơn Xồm lại may mắn, chứ nếu ngày đó mà lấy được của gã 500 ngàn đồng, thì có khi tù mọt gông. Chúng tôi cũng chỉ là những kẻ làm thuê, vì nghèo mà làm liều, mắc tội xâm phạm mồ mả người chết. Đợt đó, dân tình biết chúng tôi liên quan đến Sơn Xồm, nên đồn thổi ầm ĩ lắm. Công an đến nhà, đưa chúng tôi bằng xe máy, đi thực nghiệm hiện trường ở nghĩa địa Noong Bua, xong rồi đưa về bằng đường khác, để không ai nhìn thấy".
Theo ông Đoàn Văn Diệp, người bị "quả báo" đầu tiên không phải là Sơn Xồm, mà chính là nhóm đào mồ cuốc mả gồm 4 người Diệp - Điền - Chiến - Tài. Sau khi chuyển bộ cốt cho Sơn, thì gã biến mất khỏi địa phương cả tháng trời. Thời điểm đó, gã mang sang Lào bán, hoặc luyện phép, nên không thấy tăm tích đâu cả. Không hiểu do quả báo, hay vì bực dọc không đòi được tiền, mà ông Chiến cứ nổi điên lên, đòi đem bộc phá cho nổ tung nhà và quán phở của Sơn Xồm. Khi đó, nhà ông Chiến nghèo quá, miếng ăn chẳng có, mà vợ đang sắp đẻ đứa con thứ 6. Đàn con nheo nhóc không có gì ăn, trông chờ cả vào món tiền công lớn trong vụ đào mộ. Cuộc sống ông Chiến cứ khó khăn, chật vật mãi, rồi ông chết năm 49 tuổi, vì ung thư vòm họng, để lại người vợ và đàn con nheo nhóc. Thời gian sau, bà vợ ông Chiến cũng bị điện giật chết thảm.
Hồi mới đào mộ, nghĩ ông Điền phối hợp với Sơn Xồm "ăn" hết tiền, không chia cho mọi người, nên nhóm ông Diệp đã kéo đến nhà ông Điền hỏi cho ra nhẽ. Thế nhưng, qua nhà, thì thấy ông Điền ốm bẹp giường, không gượng dậy được. Ông Điền bảo, sau hôm đào mộ, đêm nào cũng gặp ác mộng, không ngủ được. Cứ nhắm mắt, ông lại thấy cô Lê đứng ở đầu giường khóc lóc oán thán. Ông Điền kể rằng, đêm nhận hài cốt ở bãi tha ma, do ông Diệp và ông Chiến chuyển ra, dù đã buộc rất kỹ, nhưng không hiểu sao vừa ra khỏi nghĩa địa, thì hộp sọ rơi ra ngoài, lăn lông lốc xuống ruộng. Dù rất sợ, nhưng ông Điền vẫn nhảy xuống nhặt hộp sọ, và bị con rắn cắn vào tay, không biết có phải rắn độc không. Sau này, ông Điền bị tai biến, nằm liệt luôn. Ông Tài cũng đoản mệnh, khi đột tử chết ở tuổi 46.
Về phần ông Diệp, cũng khốn đốn không kém. Tuy tính mạng ông không ảnh hưởng, nhưng cũng liêu xiêu. Vào năm 1989, hai năm sau khi đào trộm mộ, một hôm, lúc 9 giờ tối, đúng giờ ông đụng cuốc đào mộ, thì ngôi nhà gia đình ông ở bỗng dưng bốc cháy đùng đùng, mọi thứ ra tro. Đến nay, ông vẫn không hiểu vì sao nhà mình lại cháy, bởi lúc đó gia đình không nấu nướng thứ gì, không đốt lửa, mà cũng không có kẻ thù. Sợ hãi quá, vợ chồng ông bán mảnh đất ấy, rồi xây ra ra chỗ khác, vẫn trên quả đồi đó, để ở. Bao năm qua, vợ chồng ông Diệp, khi cúng bái, khấn vái điều gì, cũng đều nhắc đến cô Lê, mong cô đại xá tha cho tội đào mồ cuốc mả. Cứ khấn vái xong, ông mới thấy an lòng.
Ảnh: Nơi chôn cô gái bị sét đánh
món an ngon, lạ miệng từ thịt lợn 在 Feedy VN Youtube 的最佳解答
Ẩm thực luôn được coi trọng hàng đầu trong mỗi dịp Tết đến xuân về với các món ngon mang đậm hương vị cổ truyền dân tộc. Hôm nay Feedy sẽ hướng dẫn các bạn cách làm một mâm cơm cỗ Tết truyền thống của miền Bắc nhé.
Trong cái không khí lạnh rét đầu Xuân của vùng đồng bằng Bắc Bộ, thịt đông dường như trở thành một thứ mĩ vị mà ai ai cũng thấy ngon miệng. Món ăn này được làm chủ yếu thịt ba chỉ cùng ít bì lợn, được ninh thật nhừ qua một đêm để trở thành món thịt vô cùng hấp dẫn. Bên cạnh món mặn là thịt đông, thịt bò xào đơn giản cùng rau củ tươi sẽ khiến bữa cơm nhà bạn thanh nhẹ và ngon miệng hơn đấy. Hơn thế nữa, canh bóng thả cũng là món ăn quen thuộc trong mâm cỗ ngày Tết nhờ vào nước canh từ rau củ tươi, rất hợp khẩu vị để làm món ngon chống ngán ngày Tết và hạn chế chất béo.
Bí kíp để nấu ba món này được đậm đà cũng không có gì khó, chúng mình sử dụng hạt nêm Knorr. Với bột thịt thăn chiết xuất xương ống và tủy được hầm trong nhiều giờ mang lại độ tươi ngọt và tròn vị cho món ăn.
Tết đã đến rất gần rồi, hãy cùng Knorr và Feedy nêm ngon Tết nhà, xuân này thêm gắn kết và lưu lại ngay công thức này để có một bữa cơm ấm cúm cùng gia đình nào.
Xem chi tiết sản phẩm tại đây : https://www.knorr.com/vn/home.html
#congthucfeedy #mamcomTet #NemngontetnhaXuanthemganket #Knorr
------------------------------------------------
Tải App Feedy để không bỏ lỡ những công thức hấp dẫn nhé:
http://bit.ly/2RFpWkk (IOS)
http://bit.ly/2QxIYvw (Android)
-------------------------------------------------
Feedy VN là kênh Youtube Video trực tuyến hàng đầu Việt Nam về những món ăn truyền thống, hiện đại thu hút mọi thành phần ở mọi lứa tuổi, ở khắp nơi trên thế giới. Feedy VN còn là nơi chia sẽ những bí kíp nấu ăn độc đáo và lạ mắt nhất.
#monngon #feedyvn #amthuc
món an ngon, lạ miệng từ thịt lợn 在 Small Kitchen Corner Youtube 的最讚貼文
=) Anh Chị và Các Bạn Có Thể Mua Bột Mì Đa Dụng Tại Đây : https://bit.ly/3f8H4LD
=) Cân Điện Tử : https://shp.ee/3hvri4f
=) Bột Năng : https://bit.ly/38Nrowl
=) Đường : https://shp.ee/5ijjj6r
Cách Làm Hoành Thánh Chiên Giòn-Cách Làm Vỏ Hoành Thánh Tại Nhà| Góc Bếp Nhỏ
Hoành thánh hay còn gọi là vằn thắn là một món ăn có xuất xứ từ Trung Hoa và dần đã trở nên quen thuộc với người Việt. Không chỉ được chế biến bằng phương pháp hấp, hoành thánh còn có thể đem chiên để tạo nên những miếng vàng ươm, giòn rụm, hấp dẫn. Cách làm hoành thánh chiên quan trọng nhất là công thức trộn nhân và cách nặn vỏ bánh sao cho thật đẹp mắt. Món ăn ngon mới mẻ, lạ miệng này rất tuyệt để nhâm nhi khi rảnh rỗi, chiêu đãi bạn bè, người thân hay bổ sung món ngon vào thực đơn kinh doanh quán ăn vặt của bạn.
Hôm nay mình sẽ chia sẻ đến các bạn cách làm món Hoành Thánh Chiên Giòn chi tiết từ khâu làm vỏ bánh,tạo hình,chiên bánh.Hi vọng rằng các bạn có thể làm được những chiếc Hoành Thánh thật ngon cùng thưởng thức với gia đình.
NGUYÊN LIỆU :
1. Phần Vỏ Bánh :
-Bột mì đa dụng : 250 gram
-Trứng gà : 3 quả
-Muối : 2 gram
2. Phần Nhân Bánh :
-Thịt heo xay : 100 gram
-Cà rốt : 30 gram
-Hành lá
-Mộc nhĩ : 5 gram
-Dầu ăn, muối , tiêu ,bột ngọt....
=) CÁC BẠN CÙNG THAM KHẢO - TỔNG HỢP CÁC CÔNG THỨC KINH DOANH :
- Công Thức Làm Bánh Flan Caramen Kinh Doanh : https://youtu.be/H7Kii2x6Ipw
- Cách Làm Sữa Chua Túi Kinh Doanh : https://youtu.be/W5FpFuMGBAA
- Cách Làm Sữa Chua Túi Kinh Doanh Giá Rẻ : https://youtu.be/yF0N2_oOV3E
- Cách Làm Sữa Chua Uống Kinh Doanh : https://youtu.be/pTBNACNrCU0
- Cách Làm Trà Sữa Đóng Chai Kinh Doanh : https://youtu.be/UN5G6PqpZjc
- Cách Làm Trà Sữa Matcha Đóng Chai Kinh Doanh : https://youtu.be/KM050kMSvhI
- Cách Làm Trà Sữa Thái Đóng Chai Kinh Doanh : https://youtu.be/TrgtVgUk9sU
- Cách Làm Trà Sữa Truyền Thống Kinh Doanh : https://youtu.be/cOGqNMlRnu0
- Cách Làm Trà Chanh Kinh Doanh : https://youtu.be/hJ2vrwXRb9w
- Cách Làm Trà Tắc Kinh Doanh : https://youtu.be/lE3efZoYIuo
- Cách Làm Sâm Bí Đao Hạt Chia Kinh Doanh : https://youtu.be/c6x5lzvH6ao
- Công Thức Sữa Bắp ( Sữa Ngô ) Kinh Doanh : https://youtu.be/NCCo0yhAf14
- Cách Làm Thạch Dừa Kinh Doanh : https://youtu.be/lsQtoF7B4H0
- Cách Làm Bánh Da Lợn Đậu Xanh Kinh Doanh : https://youtu.be/vAXL28pXEqY
- Cách Làm Sữa Chua Trân Châu Cốt Dừa Kinh Doanh : https://youtu.be/JbqAFFtay78
- Công Thức Pha Bột Làm Bánh Chuối Chiên Kinh Doanh : https://youtu.be/X7n1UjZYloA
- Cách Làm Dừa Dầm Hải Phòng Công Thức Kinh Doanh : https://youtu.be/L8okBDhLln4
- Cách Làm Milo Dầm Trân Châu : https://youtu.be/vRKlrIIrpMA
- Cách Làm Cà Phê Cốt Dừa Hải Phòng : https://youtu.be/oWMrI1Ng83s
- Cách Làm Món Chân Gà Sốt Thái : https://youtu.be/chNhRS6lL3I
- Bánh Sầu Riêng Chiên Giòn : https://youtu.be/lX0boH4PKsQ
- Cách Làm Rau Má Đậu Xanh Nước Cốt Dừa : https://youtu.be/nvNgN3s_004
- Cách Làm Chè Xoài Pudding : https://youtu.be/78_rN08LhyU
----------------------------------------------
+Sữa Tươi Trân Châu Đường Đen : https://goo.gl/PJ9nj6
+Cách Làm Thạch Rau Câu Đơn Giản : https://goo.gl/THUR69
+ Cách Ủ Sữa Chua : https://goo.gl/D3v6jP
+ Nem Chua Chuẩn Vị Thanh Hóa : https://goo.gl/Bcvdqr
+ Cách Làm Thạch Dừa Ngọt Mát : https://goo.gl/dTGBx3
+ Cách Làm Hoa Quả Dầm : https://goo.gl/p9rpjY
+ Cách Làm Kẹo Kéo Đơn Giản : https://goo.gl/DYyUiX
+ Cách Làm Xôi Mít Thái Lan : https://goo.gl/4rezaW
+ Cách Làm Thạch Dừa Hạt É : https://goo.gl/mqF31P
+ Trân Châu Hoa Đậu Biếc Tuyệt Đẹp : https://goo.gl/zBy9gV
+ Thạch Rau Câu Lá Dứa Ngon Tuyệt : https://goo.gl/LU92S3
+ Mực Xào Dứa Thơm : https://goo.gl/mgwBF7.
THEO DÕI CHÚNG TÔI TẠI :
- Danh sách các món : https://goo.gl/T7fWcx
- Facebook : https://goo.gl/ky3v6J
- Twitter : https://goo.gl/SougF1
- Instagram : https://goo.gl/MCmDnh
--------------------------------------------------------------
Hãy nhấn ĐĂNG KÍ và NHẤN CHUÔNG để luôn cập nhật video mới nhất nhé !!!
Cảm ơn bạn đã XEM và ỦNG HỘ kênh !!!
Góc Bếp Nhỏ Rất TRÂN TRỌNG SỰ ĐỒNG HÀNH CỦA BẠN .
#gocbepnhonauan #gocbepnho #ăn_uống #ẩm_thực_việt.
© Bản quyền thuộc về YT Góc Bếp Nhỏ.
© Copyright by Góc Bếp Nhỏ - ? Do not Reup.
món an ngon, lạ miệng từ thịt lợn 在 MÓN ĂN NGON NGÀY TẾT lạ miệng chống ngán từ thịt heo 的推薦與評價
MÓN ĂN NGON NGÀT TẾT lạ miệng chống ngán từ thịt heo | món ngon mỗi ngày htp #monngonmoingay nguyên liệu: Thịt nạc heo Các gia vị thông ... ... <看更多>
món an ngon, lạ miệng từ thịt lợn 在 TOP 10 món THỊT LỢN (THỊT HEO) đổi khẩu vị thơm ngon ... 的推薦與評價
... món heo, món thịt heo, các món từ thịt heo, các món từ thịt lợn, thịt lợn, món từ thịt lợn, món thịt lợn, các món ngon từ thịt lợn Music: https: ... <看更多>